ThS. Trần Thị Kim Thư
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, TT Hồ Chí Minh
Nhận thức về vai trò của nhân dân
(quần chúng nhân dân) luôn là một nội dung quan trọng trong lịch sử tư tưởng
nhân loại. Sự ra đời của dân chủ thể hiện rõ vị trí, vai trò của nhân dân trong
chế độ chính trị ngay từ thời cổ đại ở phương Tây. Dân chủ là sản phẩm của cuộc
đấu tranh giai cấp đòi những quyền và lợi ích. Ở phương Đông, nhất là trong tư
tưởng triết học, quan điểm về dân luôn chiếm một vị trí quan trọng trong hệ
thống quan điểm về triết học xã hội của các nhà tư tưởng. Nhìn chung, dù có sự
diễn đạt khác nhau song các quan điểm của các nhà tư tưởng đều có chung cách
nhận thức về dân là ai? Đặc điểm chung ở họ, dân được hiểu là những người lao
động trong xã hội, phân biệt với giai cấp, tầng lớp có địa vị thống trị trong
xã hội (vua, quan) trong bộ máy nhà nước quản lý, cai trị xã hội. Sự khác nhau
giữa các nhà tư tưởng về dân chủ yếu tập trung ở quan điểm về vai trò của nhân
dân.
Trong điều kiện bài viết, tác giả
tập trung phân tích quan điểm của các nhà tư tưởng phương Đông, tập trung là
Trung Quốc và Việt Nam.
Vai trò của dân trong tư tưởng triết học Phương đông nhìn chung có tính cụ thể
không nhất, ngay trong một nhà tư tưởng. Nói tới vai trò của nhân dân trong tư
tưởng Việt Nam
thể hiện rõ đặc điểm trên. Dân (nhân dân) được coi trọng, đề cao như “chở
thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, tư
tưởng “khoan thư sức dân” lấy dân làm
gốc của các vua Trần. Từ tưởng này cũng xuất hiện trong quan điểm của nhiều
triều đại phong kiến Việt Nam. Nhưng điểm đáng lưu ý ở đây là, phần lớn vai trò
của nhân dân được đề cao và chú trọng xây dựng mối quan hệ gắn bó với dân, dựa
vào dân, trọng dân chủ yếu được thực hiện ở thời kỳ đầu của các triều đại phong
kiến khi họ tiến hành cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và xây dựng nhà
nước. Bên cạnh đó, tư tưởng hạ thấp vai trò dân, không coi trọng sức mạnh của
dân vẫn chiếm khá đông trong tư tưởng các nhà tư tưởng Việt Nam. Nhà tư tưởng Phan Khải khi
được hỏi về dân đã nói: Người nuôi dê
không thể không làm cho cỏ tốt, người nuôi cá không thể không làm cho nước đầy.
Vua đối với dân cũng như người nuôi dê,
cá. Trong đời sống xã hội thường dùng các từ như “tiện dân”, “con dân”,
“thảo dân” để chỉ người dân. Tuy nhiên, với đặc điểm của đất nước có nền sản
xuất nông nghiệp lúa nước và đặc điểm của lịch sử dựng nước, giữ nước của Việt
Nam dẫn tới vai trò của nhân dân trong xã hội, đặc biệt là trong quan điểm của
nhà nước phong kiến Việt Nam được coi trọng hơn, đề cao hơn so với tư tưởng của
Nho giáo và nhà nước phong kiến Trung Quốc. Mặc dù, Nho giáo trở thành Đạo trị
nước của hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam. Đây là cơ sở lý luận quan
trọng để hình thành tư tưởng Việt Nam cận đại, nhất là trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân và vai trò của quần chúng nhân dân. Là cơ sở lý luận xây
dựng quan điểm của Đảng ta về xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân trong quá trình lãnh đạo của Đảng.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại mà hạt nhân cốt
lõi là lý luận Mác - Lênin về quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng
nhân dân. Tiếp thu quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin: Cách mạng là ngày hội của những người bị áp bức và bị bóc lột. Không
lúc nào quần chúng nhân dân lại có thể tỏ ra là người sáng tạo trật tự xã hội
mới tích cực như trong thời kỳ cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định tầm quan trọng và sức mạnh của quần chúng nhân dân: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân và khẳng định sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, phải do nhân dân thực hiện. Do
đó Đảng và Chính phủ phải huy động sức dân, dựa vào dân, nếu không có nhân dân thì chính phủ không có lực lượng và lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn
hết. Không ai chiến được lực lượng đó; phải
phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động
viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Vì thế,
Người yêu cầu: Tin tưởng sức mạnh, năng
lực sáng tạo, năng lực cách mạng của nhân dân; phải biết huy động và lãnh đạo
quần chúng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng phù hợp với từng giai đoạn, từng địa
phương, từng ngành công tác vì sức mạnh quần chúng là vô cùng. Trong thực
tiễn cách mạng Người yêu cầu Đảng, chính phủ
phải luôn sát nguyện vọng của quần chúng, phát huy sáng kiến của quần chúng
nhân dân; phải căn cứ vào quần chúng mà có chủ trương cho đúng và kịp thời sửa
chữa chủ trương sai lầm; đặc biệt phải vì nhân dân vì quần chúng mà hy sinh
chiến đấu. Như vậy, trọng dân, huy động sức dân, dựa vào nhân dân để lãnh
đạo và quản lý đất nước là tư tưởng xuyên suốt trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Người. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: Sự lãnh đạo, quản lý của
Đảng, của Chính phủ không phải để cai trị mà là để phục vụ nhân dân, bảo vệ
quyền và lợi ích của nhân dân.
Tư
tưởng đó của Hồ Chí Minh được Đảng ta
vận dụng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trở thành nguyên
nhân của thành công trong 30 năm đổi mới. Đặc biệt là trong triển khai nhiệm vụ
phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới ở nước ta. Chính trong
thực tiễn đó đã chứng minh một chân lý khi nghị quyết của cấp ủy, kế hoạch, đề
án của Chính phủ hợp với lòng dân, được nhân dân ủng hộ và tự giác thực hiện ở
đó đạt được những kết quả cao. Chương trình xây dựng nông thôn mới là một minh
chứng cho điều đó, chỉ khi nào nhân dân đồng thuận, chủ động thực hiện, đem sức
người, vật chất của mình để thực hiện thì mục tiêu mới thành công. Điển hình
Thanh Lương và Thanh Phú của thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước trong hai năm
2014, 2015 nhân dân đã đóng góp 9,525 tỷ xây dựng đường giao thông; tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tầu tổng kết 10 thực hiện xây dựng nông thôn mới, nhân dân trong tỉnh đã
đóng góp hơn 82,6 tỷ đồng và hiến 992 ha đất xây dựng cơ sở hạ tầng ; Nam
Định nhân dân đã đóng góp số tiền lên đến 1.135, 489 tỷ đồng (chiếm 18,17%) vốn
phục vụ chương trình, đóng góp 2.809 ha đất.
Như vậy, thực tiễn cho thấy, nhân dân có vai trò quan trọng, ở đâu và
khi nào nhân dân đồng thuận, ủng hộ mọi chủ trương, chính sách của Đảng, nhà
nước được triển khai hiệu quả và ngược lại.
Tóm lại, quan điểm phát huy vai trò của quần chúng
nhân dân, coi trọng và huy động sức mạnh của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ
chính trị đất nước nói chung và triển khai các chương trình kinh tế - xã hội
của Đảng có cơ sở lý luận và thực tiễn từ lịch sử tư tưởng và thực tiễn cách
mạng ở Việt Nam. Vấn đề quan trọng là Đảng, Nhà nước cần làm gì để phát huy
được vai trò của quần chúng nhân dân? là câu hỏi lớn và là nhiệm vụ có tính cấp
thiết đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước./. |