BÁO CÁO ĐỀ DẪN
Hội thảo khoa học Khoa Dân vận
(Tháng
10 năm 2015)
Kính thưa các đ/c Đại biểu khách quý,
Thưa toàn thể các đ/c!
Công tác dân vận
là một trong những công tác cơ bản của Đảng ta. Bên cạnh công tác tư tưởng,
công tác tổ chức, công tác kiểm tra, giám sát... công tác dân vận luôn có ý
nghĩa chiến lược trong mọi thời kỳ cách mạng.
Trên nền tảng lý
luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn lọc
tinh hoa văn hóa chính trị của nhân loại về vị trí của nhân dân trong tiến trình
phát triển. Bác đã từng khẳng định với chúng ta: Trong bầu trời không có gì quý
bằng nhân dân; không có sức mạnh nào vô địch như sức mạnh đoàn kết của nhân
dân. Quá trình lãnh đạo xây dựng Ðảng, xây dựng đất nước, Bác còn khẳng định:
Muốn cách mạng thành công thì Ðảng phải vững mạnh, phải dựa vào dân, tổ chức
vận động nhân dân tham gia và lãnh đạo nhân dân thực hiện những nguyện vọng,
những lợi ích thiết thực của nhân dân.
Ngày 15-10-1949,
khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay go, quyết liệt
nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận, nêu lên nhiệm vụ cực kỳ quan
trọng của cả hệ thống chính trị là thực hiện Công tác dân vận và Bác cũng chỉ rõ, mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam đều do dân vận khéo mà có được. Người căn dặn cán bộ làm công tác dân
vận: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công”. Ngày 15-10 hàng năm là ngày truyền thống của công tác dân vận, của mối
quan hệ giữa Ðảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị với nhân dân.
Thiết thực kỷ niệm 85 năm ngày truyền
thống (15.10.1930 – 15.10.2015) và chào mừng thành công Đại hội XIX Đảng bộ
tỉnh Nam Định, hôm nay (12.10.2015) Khoa Dân vận tổ chức Hội thảo khoa học với
chủ đề: “Nâng cao chất lượng công tác dân vận
của các tổ chức cơ sở Đảng trong tình hình hiện nay” nhằm khẳng định một lần nữa vị trí, vai trò của các tổ
chức cơ sở Đảng đối với công tác dân vận.
Kính thưa các đ/c Đại biểu khách quý,
Thưa toàn thể các đ/c!
Quá trình lãnh
đạo cách mạng, kể từ khi ra đời (năm 1930), Ðảng ta đã lấy lợi ích của nhân dân
làm mục tiêu phấn đấu. Với tư cách là tổ chức chính trị, Ðảng ta đã vươn lên,
xây dựng và trưởng thành; Đảng giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo Hệ thống chính trị
tổ chức và hoạt động thật sự tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân;
tổ chức và lãnh đạo nhân dân, được nhân dân tin cậy, nuôi dưỡng và chở che;
cùng toàn dân vượt qua mọi khó khăn thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược,
giành lấy chính quyền và xây dựng đất nước ngày một phồn vinh. Tại Ðại hội Ðảng
toàn quốc lần thứ III, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Thành công của Ðảng
ta là ở nơi Ðảng đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân
dân.
Trong quá trình lãnh đạo toàn
dân tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta cũng luôn xác định: Công tác dân vận
là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là
điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
8 (BCH Trung ương Đảng khoá VI) “về đổi mới công tác dân vận, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy (BCH Trung
ương Đảng khóa XI) “về tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong tình hình
hiện nay” đã khẳng định sự nhất quán của Đảng ta trong hoạch định các chủ
trương, đường lối chỉ đạo công tác dân vận thời gian qua.
Với mục tiêu làm rõ nội dung công tác dân vận của Đảng
(mà trực tiếp của các tổ chức cơ sở Đảng) phục vụ trực tiếp cho việc soạn giảng
đối với môn học trong chương trình Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính.
Hội thảo tập trung làm rõ các nội dung:
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
về công tác dân vận ở tổ chức cơ sở đảng trong tình hình hiện nay.
2. Nâng cao hiệu quả tổ chức
và động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền trong sạch,
vững mạnh.
3. Tổ chức cơ sở đảng với việc nâng cao chất lượng
công tác chăm lo lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
4. Công tác vận động và tổ chức thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở.
5. Nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân tham
gia phong trào thi đua yêu nước của các tổ chức cơ sở đảng ở Nam Định.
Khoa Dân vận rất mong nhận được
các ý kiến từ các đồng chí để có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy môn học, góp
phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được phân công.
Xin trân trọng cám ơn!
Nội dung 1.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN
ĐIỂM CỦA ĐẢNG
VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Giảng
viên: Cù Thị Vân
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu,
khảo sát kinh nghiệm cách mạng các nước trên thế giới. Người đã rút ra kết
luận: Cách mạng muốn thành công, phải tập hợp, huy động được sức mạnh của nhân dân, phải “đi
vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra
đấu tranh giành tự do, độc lập”, để thực hiện được điều đó phải thì phải làm
công tác dân vận. Bác xác định “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót
một người dân nào” Có nghĩa là phải
thực hiện công tác vận động từ công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ
nữ, cựu chiến binh, các nhà doanh nghiệp, đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng
bào các tôn giáo và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài .
Trong tác
phẩm Đường cách mệnh, Người
chỉ rõ: Cách mệnh là việc chung của dân chúng, mọi người đều phải làm cách
mệnh. Với tác phẩm này, Người đã đặt nền móng cho lý luận về công tác dân vận,
khoa học vận động quần chúng. Trong Lời kêu gọi quốc dân nhân ngày thành lập Đảng, tư
tưởng về công tác dân vận của Người được bổ sung rõ nét, hoàn thiện hơn. Sau khi giành chính quyền, đến năm 1949. Ngày
15/10/1949, trên Báo Sự Thật, số 120 đã đăng bài báo “Dân vận” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Mở đầu bài báo, Người nhắc lại “Nước ta là nước dân chủ”, và chỉ với
mấy dòng chữ đó, Người đã tóm tắt nêu lên bản chất của Nhà nước Việt Nam mới,
đó là một nhà nước dân chủ thật sự là: “Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân” “bao nhiêu quyền
hạn đều của dân”, “công việc đổi mới và sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là
trách nhiệm và công việc của dân”;” chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến xã
đều do dân cử ra”,“Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên, “ Nói tóm lại, tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
“Nước ta là nước dân chủ”, đây chính là cơ sở, tiền đề có tính chất quyết định trong
công tác dân vận. Người kết luận: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận
rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng
thành công”. Tư tưởng lớn bao trùm và xuyên suốt của Hồ Chí Minh về dân
vận là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Ðây thật sự là cẩm nang cho Ðảng và Nhà nước ta trong tiến trình lãnh đạo, tổ
chức toàn dân tiến hành sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược
đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đảng
đã đặc biệt coi trọng công tác dân vận và khẳng định: Sức mạnh của cách mạng ở
nơi dân. Đảng ta phải dựa vào dân để làm cách mạng. Công tác dân vận của Đảng ta
được xác định là nhiệm vụ hàng đầu trong những nhiệm vụ cách mạng của toàn
Đảng. Bác Hồ đã dạy: “Giữ chặt mối liên
hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền
tảng, là cơ sở của Đảng và nhờ đó mà Đảng giành được thắng lợi”.
Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng
là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên
những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích
và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật
thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn
thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và
của Đảng. Công
tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương
Đảng (Khoá VI) ngày 27/3/1990 “Về
công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”,
đã nêu ra 4
quan điểm cơ bản về công tác Dân vận là:
Một là, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân, do
nhân dân cần được quán triệt sâu sắc hơn nữa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng
là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa giữa các lợi ích,
thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi của công dân.
Ba là, các hình thức
tập hợp nhân dân phải đa dạng
Bốn là, công tác dân vận là trách nhiệm của Đảng, đoàn thể
nhân dân, của mọi cán bộ đảng viên, cán bộ chính quyền công chức, viên chức của
nhà nước
Nhằm cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về
công tác dân vận đi vào cuộc sống, Nghị quyết đại hội Đảng các nhiệm kỳ từ khóa
VII đến khóa XI, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản nhằm tiếp tục cụ
thể hóa, thể chế hóa nội dung công tác dân vận của Đảng. Để đưa nghị quyết vào
cuộc sống, phù hợp với từng đối tượng, tầng lớp nhân dân, từng loại hình tổ chức
chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân và phù hợp với giai đoạn phát triển của
đất nước hiện nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) đã ban hành Nghị
quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 về “Tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới”. Nghị quyết này đã
nêu 5 quan điểm:
Một là,
cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân là chủ,
nhân dân làm chủ.
Hai là, động lực thúc đẩy phong
trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân
dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân;
chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi
dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân
thì hết sức tránh.
Ba là, phương thức lãnh đạo công
tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo.
Bốn là, công tác dân vận là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức,
đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang.
Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm
tham mưu và nòng cốt.
Năm là, nhà nước tiếp tục thể chế
hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ
thống chính trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ
lực lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân
phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.
Công tác dân vận thời gian qua được đánh
giá là đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay gặp
rất nhiều khó khăn so với trước đây; trong đó một trong những khó khăn, trở
ngại đó là điều khác biệt rất cơ bản là vấn đề lợi ích. Đất nước khi
chưa giành được chính quyền, toàn dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên
dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân để giành chính
quyền về tay nhân dân. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy; mọi người đều “Tất cả cho tiền tuyến, tất
cả để chiến thắng”, đều có lợi ích lớn nhất đó là độc lập, thống nhất
Tổ quốc; mọi người đều cùng chung cái nghèo, cùng nhau chia ngọt, xẻ bùi, vui
vẻ và xan xẻ cái nghèo như nhau; nhân dân đặt hết niềm tin của mình vào cán bộ
của Đảng. Chính sự gắn bó máu thịt giữa cán bộ với nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần vô cùng to lớn làm nên những
chiến thắng lẫy lừng. Ngày nay, Nghị quyết Trung ương 4 ( khóa XI) đánh giá: một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên
tắc; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được
đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý nghiêm minh,
tình trạng phân hoá giàu nghèo đã trở nên rõ rệt, một số chính sách chưa đáp
ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết,
quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm; trong khi đó các thế lực thù
địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình", thúc đẩy
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống
phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân,
làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng; làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước; ảnh hưởng xấu đến tâm tư, tình cảm, nhiệt tình của những người
chân chính, của nhiều cán bộ đang công tác nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Để thực hiện thắng lợi 7 nhiệm vụ và giải
pháp trọng tâm cho công tác dân vận trong thời gian tới theo Nghị quyết
25-NQ/TW ngày 03-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thì cùng với việc đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, triển khai Nghị quyết gắn với triển
khai học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TW
của Bộ Chính trị, Ban Dân vận cần quan tâm nghiên cứu, tuyên truyền nội dung
bài báo “ Dân vận” của Hồ Chủ Tịch trong cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân; từ đó làm rõ hơn tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh, nhất
là phong cách quần chúng của Bác; liên hệ với thực tiễn của cơ quan, đơn vị,
địa phương trong triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về công tác dân vận; từ đó nâng cao nhận thức
của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí công
tác dân vận trong tình hình mới.
Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có nhiều vấn đề mới đặt
ra cần phải giải quyết cả trước mắt và lâu dài, cả thời cơ, thuận lợi và thách
thức, khó khăn.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về
công tác dân vận, Ban Dân vận tỉnh Nam Định có sự chỉ đạo mới về cả nội dung và
phương thức hoạt động. Các cấp ủy Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai có hiệu
quả các chủ trương, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác Dân vận; thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở, quan tâm giải quyết tốt các quyền và lợi ích thiết thực
của nhân dân; thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo,
phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm; Lãnh đạo MTTQ và đoàn thể chính
trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, chú trọng hướng
về cơ sở. Quán triệt các Quyết định số 217- QĐ/TW,
ngày 12/12/2013 của Bộ chính trị “Về việc ban hành Quy chế giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị”, Quyết
định số 218 - QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành quy định
“Về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân
tham gia góp ý xây dựng đảng, xây dựng chính quyền” tới đoàn viên, hội viên và
các tầng lớp nhân dân. Tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước, hoạt động
từ thiện, nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa. Bên cạnh đó, phong trào thi đua “Dân vận
khéo” được thực hiện hiệu quả, nhất là trong các lĩnh vực phát triển kinh tế -
xã hội, xây dựng NTM. Công tác tôn giáo được quan tâm, chú trọng, các cấp ủy Đảng
thường xuyên lắng nghe tâm tư nguyện vọng và tham gia giải quyết nhu cầu chính
đáng của chức sắc, tín đồ tôn giáo, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân.
Trong thời gian tới, công tác Dân vận trong tỉnh tập
trung tham mưu với các cấp ủy sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 157-QĐ/TU,
ngày 15-4-2011 của Ban TVTU về việc ban hành “Quy chế công tác Dân vận của hệ
thống chính trị”; tổng kết việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/2/1998
của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”
và tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIX. Trong tình hình hiện nay, đòi hỏi công tác dân vận phải tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn, tập trung vào những giải pháp cơ bản sau:
Một là: Tiếp tục
triển khai các nhóm giải pháp về xây dựng Đảng và quán triệt các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng về công tác dân vận
Hai là:
Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao
ý thức, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp
đối với công tác dân vận
Ba là:
Lãnh đạo các cơ quan nhà nước tích cực
đổi mới công tác dân vận
Bốn là:
Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức công tác dân vận
Năm là: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với
công tác dân vận.
Như vậy, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của đảng về công tác dân vận. Tổ chức cơ sở đảng cần coi công tác dân vận là
nội dung quan trọng, nơi nào làm tốt công tác dân vận
thì sẽ đạt kết quả toàn diện, vững chắc. Ngược lại, nơi nào xem nhẹ công tác
dân vận, cán bộ xa rời quần chúng nhân dân, quan liêu, cửa quyền, thiếu trách
nhiệm, thiếu đạo đức, không lắng nghe, không tôn trọng và không quan tâm đến
tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của quần chúng nhân dân thì nơi ấy sẽ rất khó thực
hiện đúng chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Nội dung 2.
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC VÀ ĐỘNG VIÊN NHÂN DÂN
THAM GIA XÂY DỰNG ĐẢNG, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN
TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
Giảng
viên: Lê Thị Thu Phượng
Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn coi trọng vai trò của quần
chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng nói chung và đối với công tác xây
dựng Đảng, xây dựng Nhà nước nói riêng. Đảng ta luôn xác định công tác dân vận
là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Đồng thời là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng
cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) của Đảng đã rút ra một bài học kinh nghiệm lớn: “Sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân
dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải
xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng
là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân”.
Nhận thức sâu
sắc vai trò to lớn của nhân dân trong xây dựng Đảng, trong thời kỳ đổi mới, các
tổ chức cơ sở Đảng đã thực hiện nhiều hoạt động thiết thực nhằm vận động nhân
dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Nhiệm vụ đó được thể hiện tập trung ở các mặt sau:
1 - Tổ chức
và động viên nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia góp ý kiến xây dựng kế hoạch, chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị.
Tăng cường vai trò hạt nhân chính trị và lãnh đạo toàn
diện của tổ chức cơ sở đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính
quyền cơ sở, Đảng cần phải coi trọng và tiến hành công tác vận động nhân dân
nhằm bảo đảm mọi chủ trương, nghị quyết
của cấp ủy, mọi chính sách, quyết định của chính quyền cơ sở thực sự là sản
phẩm trí tuệ của tập thể, trí tuệ của
nhân dân.
Thực tiễn đầu những năm 1980, chính sách khoán trong
nông nghiệp “khoán chui” của một số
hợp tác xã nông nghiệp ở Đồ Sơn (Hải Phòng), Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc) cho thấy,
Đảng đã biết lắng nghe tiếng nói của dân, trân trọng những sáng kiến của dân,
làm phong phú trí tuệ của Đảng. Chính những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của
nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Các chính sách ban
hành xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân khi đi vào thực tiễn sẽ
tạo được sự đồng thuận cao(Ví dụ như Hiến pháp 2013, Luật Đất đai 2013…). Để
việc triển khai các chủ trương, chính sách mang lại hiệu quả thực sự, Đảng cũng
cần có cơ chế để nhân dân tham gia giám
sát cán bộ, đảng viên, công chức và các tổ chức đảng, tổ chức chính quyền trong
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách. Qua đó phát hiện và xử lý
những sai trái, những vi phạm; bổ sung, điều chỉnh kịp thời những vấn đề còn chưa phù hợp của
chính sách.
Trong giai đoạn hiện nay, cấp ủy và chính quyền cơ sở
đã chú trọng đổi mới cơ chế và quy trình ra quyết định lãnh đạo, quản lý theo
hướng công khai, dân chủ để phát huy trí tuệ của nhân dân. Vì vậy, các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch, chương trình, dự
án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương được nhân dân tham gia bàn bạc,
tranh luận, đóng góp ý kiến nhằm “đưa
cuộc sống vào nghị quyết”. Khi tổ chức thực hiện các chủ trương đó, lại thêm một lần sáng tạo, dựa vào dân, bàn
với dân để tìm cách làm tốt nhất với mục tiêu “đưa nghị quyết vào cuộc sống”. Thực tế, có nghị quyết, quyết định
đúng và trúng vẫn chưa đủ, mà cần có quyết tâm cao và phải biết dựa vào dân để
tìm cách thực hiện. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một
cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to
lớn, nghĩ mãi không ra”
2 - Tổ chức
và động viên nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức của Đảng, Nhà nước, vận động nhân dân góp ý kiến với tổ chức đảng và
cấp ủy về sự lãnh đạo, phê bình, góp ý cán bộ, đảng viên….
Xây dựng Đảng,
Nhà nước trong sạch, vững mạnh không chỉ là công việc của Đảng, của Nhà nước mà
còn là công việc của nhân dân, trách nhiệm của nhân dân. Để làm được việc đó,
một mặt Đảng phải làm tốt công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho đội ngũ cán
bộ thông qua việc thực hiện tốt tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; thông qua việc xử lý nghiêm
những phần tử thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền mưu cầu lợi ích cá nhân
để giáo dục, răn đe. Cán bộ, đảng viên phải hiểu dân, gương mẫu, tận tụy với
công việc, nói đi đôi với làm, thực hiện tốt Quy định số 101-QĐ/TW ngày
7/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên, giải quyết yêu cầu công việc của nhân dân; cần có quy định về dân chủ
trong Đảng và chế độ trách nhiệm đối với nhân dân. Mặt khác, cần tổ chức và
động viên nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, Nhà
nước; vận động nhân dân góp ý kiến với tổ chức đảng và cấp ủy về sự lãnh đạo và
khuyến khích nhân dân phê bình, góp ý cán bộ, đảng viên. Thông qua đó mà nhân
dân góp sức cho xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng phẩm chất đạo đức của cán
bộ, đảng viên như Bác Hồ đã dạy: "Dân
biết nhiều việc mà Đảng và Nhà nước không biết, dân có nghìn tai, nghìn mắt,
cái kim trong bọc dân cũng biết”.
Thông qua kết
quả hoạt động thực tiễn ở cơ sở, Đảng kiểm tra, phát hiện, tuyển chọn, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; Đảng lắng nghe và vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến
về việc bố trí đảng viên vào các chức vụ lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, đoàn thể và giới thiệu nhân sự cấp ủy ở cơ sở, cũng như việc xử lý kỷ
luật đảng viên vi phạm; xây dựng cơ chế để tạo thuận lợi cho nhân dân giám sát
hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên, công chức.
Trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp ủy
và phải làm đúng quy trình, quy định của Đảng, không nóng vội, chủ quan, duy ý
chí. Thông qua kết quả hoạt động thực
tiễn ở cơ sở, Đảng kiểm tra, phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
Đảng lắng nghe và vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến về việc bố trí
đảng viên vào các chức vụ lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và
giới thiệu nhân sự cấp ủy ở cơ sở, cũng như việc xử lý kỷ luật đảng viên vi
phạm; xây dựng cơ chế để tạo thuận lợi cho nhân dân giám sát hoạt động của các
tổ chức đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên, công chức.
Đối với các cơ
quan công quyền có quan hệ trực tiếp với nhân dân cần công khai các quy định cụ
thể về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức để nhân dân
biết, giám sát và kiểm tra việc thực hiện. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, đổi mới lề lối làm việc, nâng cao tinh thần phục vụ trước nhân dân. phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
các công việc hằng ngày ở ngay trên địa bàn trực tiếp nhất.
Hiện nay, các
tổ chức cơ sở đảng đã thực hiện nhiều hình thức góp ý cho Đảng, Nhà nước và
giám sát cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức: Việc tổ chức nhiều cuộc lấy ý
kiến rộng rãi của nhân dân xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách,
quyết định quan trọng ở cơ sở; tổ chức
đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân; tổ
chức lấy ý kiến nhận xét của nhân dân nơi cư trú (thôn, xóm, tổ dân phố) đối
với cán bộ, đảng viên trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, cán
bộ theo định kỳ theo Quy định 76-QĐ/TW
của Bộ Chính trị “về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và
gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”; thực hiện quy định tại các
cơ quan Đảng, chính quyền phải đặt hòm thư góp ý công khai tại trụ sở hoặc lấy
ý kiến đóng góp qua trang thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức, thông qua
tiếp xúc trực tiếp của cán bộ, đảng viên với nhân dân. …
Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả tích cực đạt được, ở một số địa phương, nhất là ở cơ sở,
trong việc phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế. Người dân
vẫn còn né tránh, e ngại trong việc góp ý, phê bình cán bộ, đảng viên, không
dám tố giác tham nhũng, tiêu cực. Mặt khác, ở một số nơi, cấp ủy đảng và chính
quyền nhận thức vấn đề này chưa sâu sắc và đầy đủ, tổ chức một cách hình thức,
kém hiệu quả, thậm chí có nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, ngại tiếp
xúc, đối thoại với nhân dân, chỉ thích nghe khen, nghe tiếng nói xuôi chiều,
không thực hiện công khai, minh bạch, thiếu trách nhiệm trong giải quyết các
nguyện vọng, yêu cầu bức xúc của người dân, không tổ chức các cuộc hội nghị để
nhân dân góp ý phê bình cán bộ, đảng viên và cấp ủy đảng, cơ quan chính quyền,
không thực hiện giải trình trước nhân dân . Vì vậy, trong thời gian tới cần đổi
mới và thực hiện có hiệu quả hơn nữa các hình thức để nhân dân thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình để góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công
chức, viên chức đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu trong công cuộc đổi mới hiện nay.
3 - Có cơ chế
để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh
thông qua việc thực hiện tốt quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền. Dựa vào đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên để giới
thiệu những đoàn viên, hội viên ưu tú cho Đảng bồi dưỡng, kết nạp.
Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là những tổ chức rộng rãi của quần
chúng nhân dân, làm tham mưu và nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội,
phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ, ý thức trách nhiệm của công dân trong thực
hiện giám sát xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Hoạt động giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc là một nhiệm vụ quan trọng trong
công tác tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh đã được quy
định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và trong
một số văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật của nhà nước. Ngày 12/12/2013, Bộ
Chính trị ban hành Quyết định 217-QĐ/TW, Quyết định 218-QĐ/TW về "Quy chế
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã
hội" và "Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị,
xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền".
Trong đó, MTTQ được xem là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân; đồng
thời cũng là nơi tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các quyền cơ bản của
công dân, được Hiến pháp quy định; nhất là quyền giám sát và phản biện.
MTTQ cùng các
tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở đã chủ động, tích cực tiến hành nhiều hoạt
động giám sát và phản biện xã hội. Như giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân; giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giám sát thực
hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; giám sát cán bộ, công
chức, đảng viên ở khu dân cư; giám sát đầu tư của cộng đồng; lấy phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ chủ chốt do hội đồng nhân dân (HĐND) cấp xã
bầu; giám sát thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước... Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đã tiến hành các hoạt động mang
tính chất phản biện xã hội, như hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử
đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp; tham gia góp ý văn kiện đại hội đảng
bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng; góp ý vào Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 vừa qua, tham gia góp ý vào các dự thảo kế hoạch, chương
trình, đề án về phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương
cơ sở… ... Từ đó góp ý, kiến nghị cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục
những hạn chế, thiếu sót, nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác lãnh đạo
của cấp ủy và quản lý của chính quyền cơ sở.
Bên cạnh đó,
việc xây dựng đội ngũ đảng viên nói chung và chăm lo công tác phát triển đảng
viên mới nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng. Để phát triển đảng viên cần phải dựa vào các đoàn thể
nhân dân, thông qua sự phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể,
nhất là Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, để giới thiệu những đoàn viên ưu
tú kết nạp vào Đảng, nhằm tăng thêm “sinh lực” cho Đảng, bảo đảm sự phát triển
bền vững lâu dài. Tham gia xây dựng Đảng, bồi dưỡng giới thiệu đoàn viên ưu tú
cho Đảng xem xét kết nạp vừa là vinh dự vừa là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức
Đoàn. Đây là cầu nối đảm bảo cho sự phát
triển của Đảng cũng như sự bền vững của tổ chức Đoàn như Điều lệ Đảng đã khẳng
định: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị
tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh” “là xây dựng Đảng trước một bước".
Như vậy, để xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, nhiệm vụ cấp bách và cơ
bản là phải củng cố và tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân,
củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân, phát huy mạnh mẽ vai trò của nhân dân đáp ứng trước yêu cầu nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội X của Đảng: “Với vị trí nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính
trị ở cơ sở, vai trò của tổ chức cơ sở đảng rất quan trọng. Phải dồn sức xây
dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm
cho tổ chức này thực sự trong sạch, vững mạnh”
Nam
Định là một tỉnh nằm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ gồm 10 huyện, thành với
229 xã, phường, thị trấn. Đảng bộ tỉnh Nam Định hiện có 16 Đảng bộ
trực thuộc với 1.036 tổ chức cơ sở Đảng, 104.638 đảng viên. Cùng với
việc tập trung phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm trật tự an ninh, các cấp ủy
đảng và chính quyền địa phương của tỉnh còn chú trọng và đẩy mạnh thực hiện
công tác dân vận, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó tham
gia giải quyết có hiệu quả những vấn đề phức tạp, bức xúc. Thực hiện tốt chế độ
tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân và chế độ tiếp dân định kỳ theo quy
định; nghiêm túc tiếp thu ý kiến phê bình, góp ý của nhân dân về công tác quản
lý, về thái độ và phong cách làm việc của cán bộ, công chức; kịp thời giải
quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo và những vấn đề bức xúc của nhân dân. Đồng
thời tuyên truyền và tạo cơ chế để nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, an toàn xã
hội. Vì vậy đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng Đảng, chính quyền
cơ sở trong sạch, vững mạnh gắn với thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.
Theo Báo cáo
chính trị của BCH Đảng bộ tỉnh Nam Định tại Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần
thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, nhiệm kỳ 2010 – 2015 tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng đạt
trong sạch vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 93,95% ( chỉ tiêu 93-94%),
tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ 84,91%.
Tổng hợp kết
quả đánh giá xếp loại chính quyền vững mạnh cấp xã năm 2014, có 149 đơn vị
(65,1%) đạt tiêu chuẩn vững mạnh; 63 đơn vị (27,5%) đạt khá; 12 đơn vị (5,2%)
xếp loại trung bình và 05 đơn vị (2,2%) xếp loại yếu kém.
Từ kết quả trên
cho thấy tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng và chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh
không ngừng được tăng lên đã tạo được niềm tin, phấn khởi trong nhân dân đối
với sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự điều hành của chính quyền trong việc tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước tại địa phương. Thông qua đó nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý
của chính quyền cơ sở. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, củng cố chính quyền
cơ sở gắn với việc vận động nhân dân tham gia cũng đang còn đặt ra những vấn đề
cần phải tiếp tục quan tâm giải quyết như: Việc đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng đối với hoạt động quản lý, điều hành của
chính quyền cơ sở; việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền
cơ sở, nhất là vai trò, vị trí của HĐND với chức năng là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân
địa phương; việc thực hiện quyền giám sát hoạt động điều hành của UBND trong
các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở địa
phương; việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ cơ sở có chuyên môn phù hợp,
có nghiệp vụ quản lý, có trình độ lý luận chính trị tương xứng với vị trí, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cơ sở theo luật định; việc đổi mới sự
lãnh đạo của cấp trên đối với cơ sở .
Như vậy, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi
mới nội dung, hình thức thực hiện công tác vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Chính
quyền trong sạch, vững mạnh là một trong những nội dung quan trọng để góp phần thực hiện tốt mục tiêu
“nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ; phát huy truyền
thống văn hiến, anh hùng, sức mạnh đoàn kết toàn dân; tạo bước đột phá về phát
triển kinh tế; phấn đấu đến năm 2020, Nam Định là tỉnh Nông thông mới, có nền
công nghiệp phát triển nhanh theo hướng hiện đại” như chủ đề Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã đề ra.
Nội dung 3.
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
VỚI VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC CHĂM LO
LỢI ÍCH HỢP PHÁP, CHÍNH ĐÁNG
CỦA NHÂN DÂN
Giảng viên: Nguyễn Thị Nga
Chăm lo lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân là
một nội dung quan trọng trong công tác dân vận của Đảng, của các tổ chức cơ sở
đảng. Vấn đề này đã được khẳng định là một trong 5 quan điểm chỉ đạo trong
Nghị quyết số 25 - NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận trong tình hình mới” do Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) ban hành ngày 03/6/2013: “Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng
lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích; quyền lợi phải đi
đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động
sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức
làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh”.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng lợi ích chính là cái kích
thích hành vi của con người. Mác nói: “Không có lợi ích thì không có gì cả”,
tất cả những gì người ta đấu tranh để giành lấy và đạt được đều gắn liền với
lợi ích của họ. Lợi ích là động lực để sản xuất, phát triển xã hội. Không có
hoạt động nào của con người mà lại không có mục đích và vì lợi ích nào đó .
Lênin đã cụ thể hoá về lợi ích và nhấn mạnh lợi ích
thiết thân của cá nhân người lao động: “Những lý tưởng cao cả nhất cũng không
đáng một xu nhỏ, chừng nào người ta không biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng
đó với lợi ích của chính ngay những người đang tham gia cuộc đấu tranh kinh tế,
chừng nào người ta không biết kết hợp những lý tưởng đó với những vấn đề “chật
hẹp” và nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày của giai cấp ấy như vấn đề trả công
lao động một cách công bằng …”
Đảng ta cũng đã xác định: Lợi ích là động lực thúc đẩy
phong trào cách mạng của quần chúng đồng thời cũng là mục tiêu của Đảng, của
cách mạng. Vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đường lối chính
trị, các chủ trương, chính sách của Đảng luôn hướng tới đáp ứng yêu cầu nguyện
vọng, lợi ích của người dân nên nhân dân rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng. Ví dụ khẩu hiệu cách mạng: “Độc lập dân tộc, ruộng đất dân cày”, chính
sách giảm tô, giảm tức sau khi giành được độc lập... đây là những khẩu hiệu,
chính sách đã đặt lợi ích của đa số nhân dân lên ngang bằng lợi ích của dân
tộc.
Lợi ích của nhân dân bao gồm lợi ích vật chất và tinh
thần.
Lợi ích vật chất thể hiện ở lợi ích kinh tế, tức quyền
sở hữu về tư liệu sản xuất, vai trò của người dân trong lao động, trong hưởng
thụ và phân phối của cải.... Lợi ích vật chất được biểu hiện trong đời sống
hàng ngày qua: ăn, mặc, ở, học hành đi lại…
Lợi ích tinh thần gồm lợi ích chính trị, quyền làm chủ
(quyền tự do bầu cử, ứng cử, tham gia hoạt động quản lý nhà nước ..), lợi ích
xã hội (mối quan hệ giữa xã hội và gia đình), lợi ích được chăm lo phát triển
toàn diện con người, được học hành, phát triển tài năng…
Trong giai đoạn hiện nay, để vận động người dân thì
đảng, các tổ chức cơ sở đảng không chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất mà còn cần
quan tâm đến lợi ích tinh thần của người dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, chú
trọng khâu huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân. Đồng thời, cần
có cơ chế gắn kết chặt chẽ giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân, khắc phục tư
tưởng coi nhẹ lợi ích tập thể và xã hội chỉ quan tâm đến quyền lợi mà quên đi
nghĩa vụ hoặc ngược lại.
Trong bài báo Dân vận đăng trên báo Sự thật ngày
15/10/1949, trước khi trình bày về công tác dân vận, Bác Hồ nhấn mạnh vấn đề
dân chủ. Bác nói: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến
Chính Phủ trung ương là do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ
chức nên Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân ”.
Theo Bác dân chủ có tác dụng vô cùng to lớn: Có dân
chủ thì cán bộ, quần chúng mới đề ra sáng kiến. Càng dân chủ cao thì càng động
viên được lực lượng của dân. Có dân chủ thì mới tạo được sự đoàn kết nhất trí
cao.
Như vậy “Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân.
Phải làm cho dân hiểu dân chủ là gì và hưởng quyền dân chủ của mình như thế
nào? ”
Cùng với việc chăm lo lợi ích thiết thực, nâng cao
tinh thần yêu nước trong nhân dân công tác dân vận cần phải hết sức coi trọng
vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Để nâng cao chất lượng công tác chăm lo lợi ích hợp pháp và chính đáng cho nhân dân,
trong thời gian tới các tổ chức cơ sở đảng ở Nam Định cần tập trung vào sáu vấn
đề sau:
Thứ nhất: Coi trọng phát triển kinh tế của địa phương
và việc phát triển kinh tế phải luôn luôn nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển
xã hội, đem lại hạnh phúc cho người dân.
Thứ hai: Cần thực thi các chính sách xã hội một cách
đúng đắn và có hiệu quả để tạo thành một động lực to lớn, để ổn định xã hội,
phát huy mọi tiềm lực vật chất, tinh thần, tài năng sáng tạo của các tầng lớp
nhân dân địa phương. Trong đó cần thực hiện tốt các chính sách đối với những
tầng lớp xã hội như những người có công với nước, phụ nữ, nông dân, thanh niên
.... Đối với các tầng lớp xã hội này cần phải có biện pháp quan tâm cụ thể bằng các cơ chế,
việc làm phù hợp để tạo điều kiện cho họ có thể hòa nhập và cống
hiến cho xã hội.
Thứ ba: Sự quan tâm chăm lo đời
sống nhân dân không chỉ dừng lại ở sự giúp đỡ về vật chất mà quan trọng hơn là
phải tổ chức, tạo điều kiện cho nhân dân tự xây dựng đời sống hạnh phúc cho
mình bằng cách chăm lo phát triển văn hóa, giáo dục, y tế để người dân có thể
tham gia xây dựng, cung cấp và hưởng thụ một cách tốt nhất các dịch vụ trong
các lĩnh vực này.
Thứ tư: Tuyên truyền, vận động
thông qua nhiều hình thức, cách làm phong phú, sinh động, rộng khắp và phù hợp
với từng đối tượng vận động về các quy chế, quy định đảm bảo quyền dân chủ của
nhân dân để nhân dân nhận thức và tự thực hiện cũng như tự bảo vệ được các
quyền tự do dân chủ của mình, qua đó góp phần củng cố niềm tin của các tầng lớp
nhân dân.
Thứ năm: Phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân thông qua việc tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp
ủy với nhân dân; tổ chức lấy ý kiến nhận xét của
nhân dân nơi cư trú đối với cán bộ, đảng viên trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ
chức đảng, đảng viên theo định kỳ.
Thứ sáu: Xử lý nghiêm những đối tượng thoái hóa, biến
chất, ức hiếp nhân dân, vi phạm quyền lợi chính đáng của nhân dân, không còn
tín nhiệm trong nhân dân. Quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc liên quan
trực tiếp đến đời sống của nhân dân, như việc làm; giải tỏa, đền bù, thu hồi
đất; tai nạn giao thông; tệ nạn xã hội...
Tóm lại, các tổ chức cơ sở đảng cần có những hoạt động
cụ thể, thiết thực để chăm lo, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần, đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân. Có như vậy mới củng cố, tăng cường
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, mới phát huy được sức
mạnh của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh.
CÔNG TÁC VẬN
ĐỘNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ
Giảng viên: Cù Thị Vân
Công tác vận động và tổ chức thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn
bộ công tác dân vận của Đảng. Dân chủ
là khát vọng sâu xa của quần chúng nhân dân lao động, là yêu cầu bức thiết của
cuộc sống. Trong xã hội ta, xã hội do nhân
dân làm chủ, thì dân chủ không chỉ là
mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là cơ chế phương thức để vận hành quyền lực của nhân
dân trong quản lý nhà nước và tổ chức đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển
thì càng có điều kiện để mở rộng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những
nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Muốn vậy, vấn đề trung tâm là phải xâydựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hướng
tới giá trị dân chủ và khát khao đưa dân tộc ta đạt được nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho nhân dân Việt Nam có được
một cuộc sống độc lập, tự do, dân chủ và giàu mạnh. Theo Người, dân chủ là của
quý báu nhất của nhân dân. Thực hiện lý tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa của Hồ
Chí Minh, xác định đúng đắn ý nghĩa to lớn của dân chủ. Ngay từ khi ra đời cho
tới nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc xây dựng nền dân chủ nhân
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân để đưa cách mạng nước ta
vượt mọi gian nan thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng khác. Nhưng trong
quá trình thực
hiện, ở một số nơi có lúc đã vi
phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của người dân làm cho kinh tế lâm vào khủng
hoảng, trì trệ, kém phát triển, làm ảnh hưởng không nhỏ đến ổn tình hình chính
trị - xã hội ở một số địa phương. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm đầu tiên đó là: “Trong toàn bộ hoạt
động của mình, đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Từ nhận thức trên, khi bước vào
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ
hoá đời sống xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nội
dung cốt lõi, trọng tâm, đặc biệt là dân chủ hoá đời sống xã hội từ cơ sở.
Chính vì vậy, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị 30CT/TW “Về xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”. Tiếp đó, ngày 11/5/1998, để cụ thể
hoá Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29NĐ/CP ban hành về “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã”.
Tiếp đến, ngày 7/7/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2003/NĐ - CP về “Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã” nhằm phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong phát
triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững
mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Trong thời gian qua, thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, Đảng và Nhà nước ta thấy rõ hiệu quả và thành công bước đầu
được của việc thực hiện dân chủ trong
đời sống nhân dân và xây dựng đất nước,
ngày 20/4/2007 Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội có Pháp lệnh số 34/2007/PL -UBTVQH “Về
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” nhằm đẩy mạnh hơn nữa và luật hoá
việc thực hiện dân chủ trong đời sống nhân dân và xây dựng đất nước.
Đến nay việc thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở và thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. Thực tế trên
toàn quốc cho thấy đã đạt được những kết quả rất quan trọng trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội; nhận thức về quyền làm
chủ của nhân dân từng bước được nâng cao, phát huy được trí tuệ và công sức của
các tầng lớp nhân dân, động viên các nguồn lực tham gia vào các phong trào thi
đua yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần đổi mới phương
thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước;
phát huy tính tiên phong, gương mẫu, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của
cán bộ, công chức; góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận
lợi trong việc tuyên truyền, vận động thuyết phục nhân dân tham gia, ủng
hộ các hoạt động phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
Đối
với tỉnh Nam Định thời gian qua, việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở đã đạt được nhiều kết quả rõ nét, quyền làm chủ của người dân ngày càng được
phát huy, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Những nội dung cơ
bản của Quy chế dân chủ đã và đang trở thành phương châm hành động của đội ngũ
cán bộ, đảng viên, góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và sự
đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân. Nhận thức rõ việc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân là động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh tại địa phương, Cấp uỷ - Chính quyền các
cấp trong tỉnh đã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở theo hướng toàn diện sâu sát, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm.
Công tác dân chủ được các cấp uỷ thực hiện nghiêm túc trong quá trình lãnh đạo,
chỉ đạo, điều hành các nhiệm vụ ở địa phương. Nhiều chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước có liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích của người dân
được công khai, đưa ra người dân bàn bạc, thảo luận trước khi thực hiện.
Thực hiện phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” các cấp uỷ Đảng đã tổ chức cho nhân dân được bàn
và quyết định trực tiếp các nội dung xây dựng nông thôn mới, mức đóng góp
xây dựng nhà văn hoá, đường giao thông thôn xóm, giao thông nội đồng, công tác
dồn điền đổi thửa, bình chọn các đối tượng hưởng chính sách xã hội hộ
nghèo.v.v.... Việc thực hiện Quy chế dân chủ được triển khai dưới nhiều hình
thức như thông qua các cuộc họp dân, các cuộc tiếp xúc cử tri, hoặc niêm yết
các thông tin công khai tại nơi công cộng để nhân dân được biết. Ngoài ra còn
có sự hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư cộng đồng, tổ chức hoà giải kịp thời tham gia, phối hợp với
chính quyền giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong nhân dân góp
phần giữ gìn an ninh trật tự trong địa bàn dân cư. Đến nay, toàn tỉnh đã thành
lập 3.773 tổ hoà giải cơ sở; có 221/229 (đạt 95%) xã, phường, thị trấn thành
lập Ban giám sát đầu tư cộng đồng. Hàng năm các đơn vị đều rà soát, sửa đổi, bổ
sung quy chế hoạt động cho phù hợp với các quy định và tình hình của địa
phương; trên 90% Ban Thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng xếp
loại Khá, Tốt. Tại các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp đã được
quan tâm và thực hiện đầy đủ nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức
và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; Góp phần xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là công bộc của nhân dân, có phẩm chất
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, làm việc có năng xuất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất
nước; Phòng ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Đến nay 100% số cơ quan có nội quy cơ
quan, quy chế chi tiêu tài chính và sử dụng tài sản công ; 85% cơ quan có Quy
ước nếp sống văn hoá; 96 % cơ quan có quy chế tổ chức và hoạt động của cơ quan;
95% cơ quan có Quy chế hoạt động của Ban thanh tra nhân dân; 90% cơ quan có Quy
chế tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo; 97% cơ quan có quy chế tuyển dụng,
đào tạo, đề bạt, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, nhận xét, đánh giá cán bộ
công chức. Công tác tiếp dân được duy trì thường xuyên, đúng quy chế, giải
quyết khiếu nại, tố cáo được tập trung chỉ đạo kiên quyết, nghiêm túc, thận
trọng, hạn chế tối đa tình trạng khiếu kiện đông người.
Đối với các doanh nghiệp đã
quan tâm chỉ đạo, triển khai thực hiện Nghị định 60/2013/NĐ-CP,
ngày 19/6/2013 của chính phủ “Về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc” thông qua nhiều hình thức( đối thoại tại nơi
làm việc, hội nghị người lao động, tổ chức cuộc họp, thông tin công khai, niêm
yết và các phương tiện thông tin…) đến nay 206 doanh nghiệp tổ chức thương
lượng và ký kết lao động tập thể ; 88 doanh nghiệp xây dựng Quy chế đối thoại
định kỳ ; 72 doanh nghiệp thành lập tổ đối thoại và tiến hành tổ chức đối thoại
với người lao động ở nơi làm việc; 220 doanh gnhiệp xây dựng quy chế hội nghị
người lao động; 226 doanh nghiệp tổ chức hội nghị người lao động.
Nhìn chung công tác tuyên truyền, việc tổ chức hội nghị
người lao động đối thoại tại nơi làm việc được quan tâm triển khai thực hiện.
Nhận thức của người sử dụng lao động cũng như người lao động về dân chủ và
quyền làm chủ tại nơi làm việc được nâng lên; vai trò của các hội, đoàn thể đại
diện cho người lao động trong doanh nghiệp được khẳng định.
Từ những
kết quả trên có thể khẳng định, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp
phần làm cho hệ thống chính trị ở xã, thị trấn, các cơ quan hành chính sự
nghiệp, doanh nghiệp của tỉnh Nam Định tiếp tục được củng cố, kiện toàn; Ý
thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên, góp phần quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Để công tác vận động và
tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ngày càng đạt được kết quả cao tổ
chức cơ sở đảng cần có các giải pháp sau đây:
Thứ nhất: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục,
quán triệt sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những chủ trương chỉ đạo của
Đảng và pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn như: Chỉ thị số 30 CT/TW, ngày
18/2/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về xây dựng và thực hiện Quy chế ở cơ sở”.Gắn việc thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 ( Khoá XI) “ Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về
“Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Pháp lệnh số
34/2007/UBTVQH ngày 20/4/ 2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Thứ hai: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị định số 71/1998/NĐ-CP
ngày 08/9/1998 của Chính phủ ban hành “Quy
chế thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan” gắn thực hiện dân chủ ở cơ
sở với cải cách thủ tục hành chính nhất là thường xuyên rà soát, loại bỏ hoặc
kiến nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ các thủ tục hành chính không còn phù hợp
theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân, doanh nghiệp; thực hiện tốt việc công khai minh bạch về tài chính, chế độ
chính sách, công tác cán bộ. Hình thức công khai phong phú, đa dạng và linh
hoạt phù hợp với tình hình của cơ quan, đơn vị đảm bảo tất cả các thông tin đều
đến được với cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ
ba: Thực hiện tốt các
nội dung, hình thức công khai theo đúng quy định tại Quyết định số 05/2014/QĐ- TTg
ngày 15/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về “Công
khai chế độ, chính sách liên quan đến phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ
đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức” để nhân
dân tham gia đóng góp ý kiến và giám sát.
Thứ
tư: Tăng cường kiểm
tra, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ tại cơ quan, đơn vị; đẩy mạnh thực
hiện phong trào thi đua yêu nước gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với
công tác dân vận của chính quyền và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về một
số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay. Định kỳ sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm; biểu dương, khen thưởng hoặc đề xuất Ủy ban nhân dân quận khen
thưởng những tập thể, cá nhân thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thứ năm: Để công tác vận động và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đạt quả
cao, cần phải đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục và thường xuyên
đổi mới. Chú trọng đến trình độ, phong tục, tập quán của từng đối tượng để lựa
chọn những hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp. Cung cấp các tài liệu cần
thiết về thực hiện dân chủ ở cơ sở để trang bị đầy đủ cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Kiên quyết khắc phục tình trạng người dân không biết hoặc không nắm
được đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn do không được cung cấp thông tin,
tài liệu.
Hiện nay, công tác vận động và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa vô cùng to lớn vì cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước là nơi cần thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi. Do vậy sự ra
đời của quy chế dân chủ ở cơ sở là một bước đột phá quan trọng trong việc hiện
thực hoá bản chất dân chủ của nước ta. Quy chế dân chủ là văn bản quy phạm pháp
luật cụ thể hoá quản lý công của nhân dân cơ sở, nhằm phát huy nội lực và sức
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nước. Toàn bộ HTCT có vai trò
hết sức quan trọng và mang tính quyết định trong việc tuyên truyền, giáo dục
rộng rãi trong hội viên, nhân dân quy
chế dân chủ ở cơ sở nhằm mục đích người dân sử dụng đúng quyền và nghĩa vụ công
dân, quyền của các tổ chức chính trị xã hội đã được quy định trong quy chế dân
chủ; phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện quy chế dân chủ và giám sát
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Nội dung 5.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN
THAM GIA PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC
CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở NAM ĐỊNH
Giảng viên: Mai Thị Thanh Hương
Sinh thời, Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến vấn đề thi đua
yêu nước, Người coi đó là một bộ phận không thể thiếu trong công tác quản lý
của Nhà nước, đồng thời bản thân Người cũng là tấm gương mẫu mực trong mọi
phong trào thi đua do chính Người khởi xướng. Người từng nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi
đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Nhận thức được
tầm quan đó, Đảng ta coi việc tổ chức nhân dân tham gia các phong trào thi đua
yêu nước là một nội dung quan trọng trong công tác dân vận của Đảng nói chung,
của các tổ chức cơ sở đảng nói riêng.
Nói
về vai trò và vị trí của các phong trào thi đua, không thể phủ nhận phong trào
thi đua có tác dụng động viên mọi người tự nâng cao trình độ, nâng cao năng
suất lao động, hiệu quả công tác. Nó còn là biện pháp quan trọng để khơi dậy
tiềm năng, lòng nhiệt tình và tạo động lực trong lao động. Đồng thời nó hạn chế
những tiêu cực nảy sinh và góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế -
xã hội của đất nước. Như vậy triển khai
sâu rộng, hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước chính là động lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
C.Mác – Ph.Ănghen là
những người đầu tiên nghiên cứu một cách khoa học về bản chất và nội dung của
thi đua. Theo Mác – Ăngghen, ở đâu có hợp tác lao động thì ở đó sẽ nảy sinh ra
thi đua và thi đua được coi như nghị lực sống của con người nhằm nâng cao năng
suất lao động.
Tiếp
thu quan điểm của Mác và Ăngghen, V.I.Lê-nin đã đưa ra khái niệm thi đua XHCN.
Ông coi thi đua XHCN là hình thức hợp tác giữa người với người, ra đời trên cơ
sở lao động tập thể và những mối quan hệ tương trợ, đoàn kết giữa những người
đồng chí với nhau.
Vận
dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về thi đua vào hoàn cảnh nước
ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng quan niệm về thi đua lên một tầm tư tưởng mới:
thi đua là biểu hiện của lòng yêu nước, là cốt cách và phẩm chất đạo đức của
người Việt Nam
yêu nước. Người chỉ rõ: “Cách mạng càng
khó khăn, càng phải tổ chức các phong trào thi đua yêu nước” và “Hễ là người
Việt Nam yêu nước thì phải thi đua, thi đua là yêu nước. Thi đua là một cách
yêu nước thiết thực nhất...”. Vì thế
ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, Nhà nước lần đầu tiên
chính thức phát động phong trào thi đua ái quốc.
Thấm nhuần quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh về thi đua yêu nước, Quốc hội đã ban hành Luật thi đua khen thưởng năm
2003, sửa đổi năm 2013. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định 258/QĐ-TTg ngày 4/3/2008 về
việc lấy ngày 11- 6 hằng năm là Ngày Truyền thống thi đua yêu nước và ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo công tác thi đua khen thưởng. Bộ chính trị cũng ra Chỉ thị 35- CT/TW ngày
3-6-1998 về đổi mới công tác thi đua khen thưởng trong giai đoạn mới, chỉ thị
39-CT/TW ngày 21-5-2004 về “Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”; và chỉ thị 34-CT/TW ngày 7/4/2014 về tiếp
tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng. Trong đó Đảng ta tiếp tục khẳng định
các phong trào thi đua yêu nước chính là động lực phát triển KT-XH, là biện
pháp quan trọng để xây dựng con người mới; thi đua yêu nước phải được tiến hành
thường xuyên, liên tục hàng ngày.
Về bản chất,
thi đua là hoạt động có tổ chức với sự
tham gia tự nguyện của cá nhân¸ tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt
nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong
công tác thi đua, một yếu tố rất quan trọng đó là khen thưởng. Thi đua là cơ sở
của việc khen thưởng. Chính trên nền tảng của phong trào thi đua mới có thể lựa
chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu nhất, xứng đáng nhất cho việc khen
thưởng. Như vậy thi đua và khen thưởng bổ sung, hỗ trợ cho nhau và gắn bó với
nhau.
Có hai hình thức tổ chức phong trào thi đua là thi đua
thường xuyên và thi đua theo đợt. thi đua thường xuyên là căn cứ vào chức năng
nhiệm vụ được giao của cá nhân, tập thể để thực hiện tốt công việc hàng ngày,
hàng tháng, hàng quý, hàng năm của đơn vị. Thi đua theo đợt (hoặc thi đua theo
chuyên đề) là để thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm trong khoảng thời gian nhất
định hoặc để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị mà nội dung có tính chất
chuyên môn, ngành nghề.
Nguyên tắc tổ
chức thi đua: Thứ nhất, phải công khai cho đông đảo quần chúng biết mục đích, yêu cầu, nội
dung, chỉ tiêu, danh hiệu, chế độ khen thưởng, kết quả của các phong trào thi
đua. Thứ hai, phải so sánh
giữa các kết quả, các sáng kiến để chọn lọc những sáng tốt phù hợp với thực
tiễn. Thứ ba, phải thực hiện
tập trung dân chủ trong thi đua, tức là tập trung sự lãnh đạo của tổ
chức đối với phong trào, dẫn dắt phong trào đi đúng hướng nhưng đồng thời phải
đảm bảo tính dân chủ để quần chúng tự nguyện, tự giác tham gia phong trào và
khai thác được khả năng sáng tạo của quần chúng. Thứ tư, phải bảo đảm sự lãnh đạo vì thi đua là
một công cụ được sử dụng nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chính sách đã
đề ra. Thông qua các phong trào thi đua, các nghị quyết, kế hoạch, chương trình
hành động trở nên sinh động nhờ thực tiễn và được kiểm tra trong thực tiễn. Do
đó, tự bản thân phong trào thi đua đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của
cấp ủy đảng. Thứ năm, phải đảm bảo
nguyên tắc kết hợp giáo dục chính trị - tư tưởng với khuyến khích lợi ích vật
chất và tinh thần. Thực tiễn cho thấy, nếu biết quan tâm giáo dục
tốt về chính trị và nhiệt tình cách mạng cho quần chúng thì quần chúng sẽ có
thói quen lao động mà không chờ vào việc khen thưởng, không có sự mặc cả trong
thi đua. Tuy nhiên lợi ích vật chất đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã
hội, do đó kích thích bằng lợi ích vật chất sẽ là một phương tiện quan trọng để
tổ chức, duy trì, phát triển phong trào thi đua. Do đó nguyên tắc kết hợp giữa giáo dục chính
trị - tư tưởng với khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân là nguyên tắc không thể thiếu
trong tổ chức các phong trào thi đua của tổ chức cơ sở đảng.
Đối với tỉnh Nam Định, để phong trào thi
đua yêu nước có sức lan toả đi vào chiều sâu, Tỉnh ủy Nam Định đã tổ chức học
tập, quán triệt, triển khai và cụ thể hoá đường lối, chủ trương, nghị quyết của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, 9
(khoá XI); các Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh; phát động thi đua thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay". Tỉnh uỷ còn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng
thực hiện hiệu quả các nội dung Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; phát động thi
đua “Xây dựng NTM giai đoạn 2010-2015”
và thi đua nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh với chủ đề: “Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân
dân tỉnh Nam Định chung sức đồng lòng, thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh năm 2015”; thi
đua đặc biệt chào mừng đại hội Đảng các cấp và các ngày lễ lớn kỷ niệm trong
năm.
Được sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, các tổ chức
cơ sở Đảng trong tỉnh đã quán triệt, triển khai nghiêm túc, kịp thời các nghị
quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền, các đoàn thể chính trị ở cấp xã,
trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang. Thông qua
tổ chức phong trào thi đua, các tổ chức cơ sở Đảng đã thực hiện hiệu quả việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng nông thôn mới, phát triển văn hoá - giáo dục, bảo đảm an ninh nông thôn,
an ninh đô thị…Các tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp cũng đã tham gia
xây dựng và lãnh đạo hiệu quả nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh. Nhìn chung trong
những năm qua, các tổ chức cơ sở đảng đã có nhiều nỗ lực khắc phục khó khăn,
đẩy mạnh các phong trào thi đua, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của
từng cơ quan, đơn vị và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ
tỉnh.
Quá trình tổ
chức phong trào thi đua của các tổ chức cơ sở đảng có một số ưu điểm và hạn chế sau:
* Về ưu điểm:
Việc tổ chức nhân dân tham
gia các phong trào thi đua yêu nước trong những năm qua đã có chuyển biến tích
cực góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội. Các phong trào
thi đua được tổ chức sâu rộng, có nhiều sáng tạo, từng bước đổi mới về nội dung
và hình thức, bám sát thực tiễn, đã gắn với Cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và gắn với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị ở từng đơn vị cơ sở. Công tác khen thưởng được tiến hành chặt chẽ, bài bản,
qua đó đã kịp thời động viên, tôn vinh kịp thời
những tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc. Nhờ đó đã góp phần tích cực vào
việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, củng cố xây dựng Đảng,
chính quyền, mặt trận và các đoàn thể ngày càng vững mạnh.
* Về hạn chế:
Phong trào
thi đua ở các tổ chức cơ sở phát triển chưa đồng đều, liên tục, nhiều nơi còn
mang nặng tính hình thức, chậm đổi mới, thiếu sáng tạo, áp đặt từ trên xuống. Chỉ tiêu thi đua
còn chung chung, chủ yếu sao chép nội dung của cấp trên, chưa cụ thể hóa cho
sát với đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị cơ sở. Các phong trào thi đua còn “chồng
lấn” nhau, phong trào này chưa kết thúc đã có phong trào khác, dẫn đến nhàm
chán. Thậm chí có tình trạng có “phát” nhưng không “động”. Trong khi đó công
tác chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện ở một số cơ sở chưa thường xuyên,
sâu sát.
Phong trào thi đua ở một số đơn vị
cơ sở chưa được lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền cơ sở quan tâm đúng mức; còn có
biểu hiện coi nhẹ việc tổ chức phát động phong trào thi đua. Một số đơn vị cơ
sở mới chỉ tập trung vào xét đề nghị khen thưởng, chưa gắn với việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị do đó chưa tạo được động lực thi đua,
khí thế sôi nổi trong cơ quan, đơn vị.
Việc bình xét thi đua, đề nghị khen thưởng và
tặng các danh hiệu thi đua thiếu kịp thời, chính xác, có biểu hiện nể nang, cào
bằng theo số lượng được phân bổ tạo tâm lý không mặn mà với các phong trào thi
đua. Chưa chú trọng khen thưởng cho những người lao động trực tiếp ít và còn
tồn tại các biểu hiện tiêu cực,
thương mại hóa trong việc suy tôn, bình xét khen thưởng.
Một số đơn vị cơ sở chưa hoặc ít sử
dụng thẩm quyền của cấp mình theo Luật quy định để biểu dương khen thưởng (tặng
các danh hiệu thi đua, tặng giấy khen ở cấp xã, các đơn vị kinh tế, đơn vị sự
nghiệp...). Công tác tuyên truyền, tổ chức học tập các điển hình tiên tiến, mô
hình mới còn nhiều hạn chế.
Chính những tồn tại, bất cập này đã
làm giảm ý nghĩa và vai trò của việc tổ chức các phong trào thi đua yêu nước.
Để khắc phục những hạn chế và nâng cao chất lượng công tác tổ chức nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, các tổ chức cơ sở Đảng nói chung và tổ chức cơ sở đảng tỉnh Nam Định nói
riêng cần tập trung vào những vấn đề sau:
Thứ
nhất, Sự lãnh đạo của người đứng đầu cấp ủy cơ sở là yếu tố
quyết định để tổ chức các phong trào thi đua có hiệu quả. Do đó phải tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ cơ sở trong
tổ chức, triển khai các phong trào thi đua nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả.
Tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực, tránh
tình trạng khen thưởng tràn lan, không thực chất. Mỗi chi bộ, đảng viên cần
phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân trong các phong trào
thi đua ở cơ sở.
Thứ
hai, nội dung phong trào thi đua phải gắn liền với nhiệm vụ chính
trị trọng tâm của đơn vị cơ sở trong từng giai đoạn cụ thể. Coi trọng
việc xây dựng kế hoạch, nội dung, chương trình, tiêu chí thi đua. Muốn vậy:
Xác định
rõ mục tiêu, chỉ tiêu, đối tượng, nội dung, biện pháp, phạm vi tổ chức phong
trào thi đua.
Khi xây dựng kế hoạch thực hiện các
phong trào thi đua cần có nội dung kiểm tra, giám sát, phân công trách nhiệm và
tiến độ thực hiện. Kế hoạch phải cụ thể rõ ràng.
Gắn kết các phong trào thi đua với
việc đẩy mạnh việc“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh luôn sống mãi qua các phong trào thi đua yêu nước,
qua đó nâng cao chất lượng các phong trào thi đua. Chẳng hạn: Từ các chuyên đề
liên quan đến việc“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các đơn
vị cơ sở có thể gắn với nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn để đổi mới, đa
dạng hóa các nội dung phong trào thi đua.
Bên cạnh các phong trào thi đua thực
hiện nhiệm vụ chính trị thường xuyên, cần phát động các phong trào thi đua thực
hiện nhiệm vụ đột xuất, cấp bách hoặc những nhiệm vụ để giải quyết những khó
khăn của đơn vị cơ sở. Để làm tốt nội dung này đòi hỏi phải nhanh nhạy nắm bắt
những vấn đề khó khăn của đơn vị cơ sở và chủ động tìm tòi, đề xuất phương thức
tháo gỡ thông qua việc tổ chức các phong trào thi đua theo chuyên đề hoặc thi
đua đột xuất.
Thứ ba, đổi mới hình thức tổ chức phong trào thi đua yêu
nước để làm phong trào thêm sinh động, đa dạng, hấp dẫn. Điều
này đòi hỏi:
Ngay từ khâu phát động, triển khai
phong trào phải gây được ấn tượng, gây được sự chú ý. Hình thức tổ chức các
phong trào thi đua phải gắn với sự kiện chính trị xã hội, ngày truyền thống,
ngày kỷ niệm của đất nước hoặc các sự kiện lớn hay nhiệm vụ chính trị của đơn
vị cơ sở. Điều này sẽ giúp tập hợp được đông đảo lực lượng tham dự nhờ đó việc
phát động các phong trào thi đua yêu nước cũng dễ dàng hơn.
Phát động phong trào thi đua nên gắn
với các hoạt động bề nổi như văn hóa, thể thao để tạo khí thế.
Hình thức tổ chức phong trào thi đua
phải phù hợp với nội dung, đối tượng tham gia và đặc điểm, nhiệm vụ của từng
đơn vị cơ sở. Muốn vậy, đơn vị cơ sở cần nghiên cứu khả năng, điều kiện, chức
năng, nhiệm vụ và nhất là đối tượng sẽ tham gia phong trào để thiết kế hình
thức tổ chức phù hợp. Điều này sẽ sẽ tạo nên hiệu quả cao của các phong trào
thi đua yêu nước.
Thứ tư, tăng cường phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình
tiên tiến. Để tổ chức phong trào thi đua đạt hiệu quả, cần coi trọng việc phát hiện
và bồi dưỡng điển hình tiên tiến bằng nhiều hình thức, qua đó biểu dương, tôn
vinh các điển hình để tạo sức lan toả trong toàn xã hội.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền các phong
trào thi đua làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, người lao động trong các đơn vị cơ sở coi
phong trào thi đua là động lực to lớn để thực hiện nhiệm vụ chính trị. Để làm
được điều này phải tích cực tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông, tuyên
truyền qua các hoạt động. Ngoài ra có thể sử dụng các hình thức tuyên truyền
khác như: mời báo cáo viên, tuyên truyền viên,… Đẩy mạnh công tác tuyên truyền
là biện pháp vô cùng hiệu quả trong việc phát triển các phong trào thi đua yêu
nước.
Thứ sáu, xây dựng qui trình tổ chức các phong trào thi đua gồm các bước:
Xây dựng kế hoạch phát động và tổ
chức phong trào thi đua yêu nước: Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, các đơn vị cơ
sở xem xét điều kiện của cơ quan đơn vị, địa phương và khả năng của đối tượng
tham gia để xây dựng kế hoạch phát động phong trào. Trong kế hoạch phải xác
định rõ mục đích, yêu cầu, mục tiêu, chỉ tiêu, đối tượng nội dung, giải pháp,
thời gian, tiến độ, nguồn lực, phân công tổ chức thực hiện. Triển khai thực
hiện phong trào: gồm phát động phong trào; hướng dẫn, đôn đốc; kiểm tra giám
sát; sơ kết tổng kết, rút kinh nghiệm; khen thưởng và bồi dưỡng nhân điểm hình.
Thứ bảy, công tác sơ kết, tổng kết, khen thưởng
phong trào. Các phong trào thi đua
cần được kiểm tra, sơ, tổng kết nhằm đánh giá đúng những kết quả đạt được, chỉ
ra tồn tại, hạn chế và hướng khắc phục. Qua đó rút ra cách làm hay, kinh nghiệm
tốt để bồi dưỡng, nhân ra diện rộng. Việc đánh giá không sát, không đúng, né
tránh sự thật sẽ là trở ngại lớn trong quá trình tổ chức các phong trào thi
đua. Khi sơ, tổng kết phong trào thi đua cần coi trọng việc động viên khen
thưởng kịp thời đồng thời nêu gương, giáo dục và tạo sự lan tỏa trong cộng
đồng.
Tóm
lại: tổ chức nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước có vai trò rất
quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước và nhiệm vụ
chính trị của đơn vị cơ sở. Do đó một trong những biện pháp để nâng cao chất
lượng công tác này đòi hỏi phải có sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo của người đứng
đầu cấp ủy cơ sở. Đồng thời phải đổi mới về nội dung, hình thức tổ chức, phải
đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục và khi tổ chức phải có quy trình rõ
ràng, có sơ kết, tổng kết và khen thưởng những cá nhân, tập thể có thành tích
xuất sắc. Có như vậy, mới có thể phát huy thực sự sức mạnh của quần chúng nhân
dân./. |