banerchinh-ngay14-3-2021
Nhiệt liệt chào mừng 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại (19/5/1890-19/5/2025)!
Hỗ trợ trực tuyến
Hội thảo khoa học

Hội thảo khoa học với chủ đề: "Nâng cao chất lượng công tác dân vận của các tổ chức cơ sở Đảng trong tình hình hiện nay"

Thiết thực kỷ niệm 85 năm ngày truyền thống (15.10.1930 – 15.10.2015) và chào mừng thành công Đại hội XIX Đảng bộ tỉnh Nam Định, hôm nay (12.10.2015) Khoa Dân vận tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Nâng cao chất lượng công tác dân vận của các tổ chức cơ sở Đảng trong tình hình hiện nay” nhằm khẳng định một lần nữa vị trí, vai trò của các tổ chức cơ sở Đảng đối với công tác dân vận...

BÁO CÁO ĐỀ DẪN

Hội thảo khoa học Khoa Dân vận

(Tháng 10 năm 2015)

 

Kính thưa các đ/c Đại biểu khách quý,

Thưa toàn thể các đ/c!

Công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng ta. Bên cạnh công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác kiểm tra, giám sát... công tác dân vận luôn có ý nghĩa chiến lược trong mọi thời kỳ cách mạng.

Trên nền tảng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn lọc tinh hoa văn hóa chính trị của nhân loại về vị trí của nhân dân trong tiến trình phát triển. Bác đã từng khẳng định với chúng ta: Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân; không có sức mạnh nào vô địch như sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Quá trình lãnh đạo xây dựng Ðảng, xây dựng đất nước, Bác còn khẳng định: Muốn cách mạng thành công thì Ðảng phải vững mạnh, phải dựa vào dân, tổ chức vận động nhân dân tham gia và lãnh đạo nhân dân thực hiện những nguyện vọng, những lợi ích thiết thực của nhân dân.

Ngày 15-10-1949, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay go, quyết liệt nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận, nêu lên nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của cả hệ thống chính trị là thực hiện Công tác dân vận và Bác cũng chỉ rõ, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều do dân vận khéo mà có được. Người căn dặn cán bộ làm công tác dân vận: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Ngày 15-10 hàng năm là ngày truyền thống của công tác dân vận, của mối quan hệ giữa Ðảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị với nhân dân.

Thiết thực kỷ niệm 85 năm ngày truyền thống (15.10.1930 – 15.10.2015) và chào mừng thành công Đại hội XIX Đảng bộ tỉnh Nam Định, hôm nay (12.10.2015) Khoa Dân vận tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Nâng cao chất lượng công tác dân vận của các tổ chức cơ sở Đảng trong tình hình hiện nay” nhằm khẳng định một lần nữa vị trí, vai trò của các tổ chức cơ sở Đảng đối với công tác dân vận.

Kính thưa các đ/c Đại biểu khách quý,

Thưa toàn thể các đ/c!

Quá trình lãnh đạo cách mạng, kể từ khi ra đời (năm 1930), Ðảng ta đã lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Với tư cách là tổ chức chính trị, Ðảng ta đã vươn lên, xây dựng và trưởng thành; Đảng giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo Hệ thống chính trị tổ chức và hoạt động thật sự tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân; tổ chức và lãnh đạo nhân dân, được nhân dân tin cậy, nuôi dưỡng và chở che; cùng toàn dân vượt qua mọi khó khăn thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành lấy chính quyền và xây dựng đất nước ngày một phồn vinh. Tại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ III, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Thành công của Ðảng ta là ở nơi Ðảng đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân.

Trong quá trình lãnh đạo toàn dân tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta cũng luôn xác định: Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 (BCH Trung ương Đảng khoá VI) “về đổi mới công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy (BCH Trung ương Đảng khóa XI) “về tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong tình hình hiện nay” đã khẳng định sự nhất quán của Đảng ta trong hoạch định các chủ trương, đường lối chỉ đạo công tác dân vận thời gian qua.

Với mục tiêu làm rõ nội dung công tác dân vận của Đảng (mà trực tiếp của các tổ chức cơ sở Đảng) phục vụ trực tiếp cho việc soạn giảng đối với môn học trong chương trình Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính. Hội thảo tập trung làm rõ các nội dung:

1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác dân vận ở tổ chức cơ sở đảng trong tình hình hiện nay.

2. Nâng cao hiệu quả tổ chức và động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền trong sạch, vững mạnh.

3. Tổ chức cơ sở đảng với việc nâng cao chất lượng công tác chăm lo lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

4. Công tác vận động và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

5. Nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân tham gia phong trào thi đua yêu nước của các tổ chức cơ sở đảng ở Nam Định.

Khoa Dân vận rất mong nhận được các ý kiến từ các đồng chí để có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy môn học, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được phân công.

Xin trân trọng cám ơn!

 

Nội dung 1.

 

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG

VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG

TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

 

Giảng viên: Cù Thị Vân

 

Trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm cách mạng các nước trên thế giới. Người đã rút ra kết luận: Cách mạng muốn thành công, phải tập hợp, huy động được sức mạnh của nhân dân, phải “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”, để thực hiện được điều đó phải thì phải làm công tác dân vận. Bác xác định “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào” Có nghĩa là phải thực hiện công tác vận động từ công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, các nhà doanh nghiệp, đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài .

Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người chỉ rõ: Cách mệnh là việc chung của dân chúng, mọi người đều phải làm cách mệnh. Với tác phẩm này, Người đã đặt nền móng cho lý luận về công tác dân vận, khoa học vận động quần chúng. Trong Lời kêu gọi quốc dân nhân ngày thành lập Đảng, tư tưởng về công tác dân vận của Người được bổ sung rõ nét, hoàn thiện hơn. Sau khi giành chính quyền, đến năm 1949. Ngày 15/10/1949, trên Báo Sự Thật, số 120 đã đăng bài báo “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mở đầu bài báo, Người nhắc lại “Nước ta là nước dân chủ”, và chỉ với mấy dòng chữ đó, Người đã tóm tắt nêu lên bản chất của Nhà nước Việt Nam mới, đó là một nhà nước dân chủ thật sự là: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân” “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “công việc đổi mới và sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là trách nhiệm và công việc của dân”;” chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến xã đều do dân cử ra”,Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân  tổ chức nên, “ Nói tóm lại, tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. “Nước ta là nước dân chủ”, đây chính là cơ sở, tiền đề có tính chất quyết định trong công tác dân vận. Người kết luận: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Tư tưởng lớn bao trùm và xuyên suốt của Hồ Chí Minh về dân vận là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Ðây thật sự là cẩm nang cho Ðảng và Nhà nước ta trong tiến trình lãnh đạo, tổ chức toàn dân tiến hành sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đảng đã đặc biệt coi trọng công tác dân vận và khẳng định: Sức mạnh của cách mạng ở nơi dân. Đảng ta phải dựa vào dân để làm cách mạng. Công tác dân vận của Đảng ta được xác định là nhiệm vụ hàng đầu trong những nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng. Bác Hồ đã dạy: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng, là cơ sở của Đảng và nhờ đó mà Đảng giành được thắng lợi”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VI) ngày 27/3/1990 “Về công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”, đã nêu ra 4 quan điểm cơ bản về công tác Dân vận là:

Một là, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân cần được quán triệt sâu sắc hơn nữa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hai là, động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa giữa các lợi ích, thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi của công dân.

Ba là,  các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng

Bốn là, công tác dân vận là trách nhiệm của Đảng, đoàn thể nhân dân, của mọi cán bộ đảng viên, cán bộ chính quyền công chức, viên chức của nhà nước

Nhằm cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về công tác dân vận đi vào cuộc sống, Nghị quyết đại hội Đảng các nhiệm kỳ từ khóa VII đến khóa XI, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản nhằm tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa nội dung công tác dân vận của Đảng. Để đưa nghị quyết vào cuộc sống, phù hợp với từng đối tượng, tầng lớp nhân dân, từng loại hình tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân và phù hợp với giai đoạn phát triển của đất nước hiện nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Nghị quyết này đã nêu 5 quan điểm:

Một là, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ.

Hai là, động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh.

Ba là, phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo.

Bốn là, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt.

Năm là, nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ  thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ thống chính trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.

Công tác dân vận thời gian qua được đánh giá là đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn so với trước đây; trong đó một trong những khó khăn, trở ngại đó là điều khác biệt rất cơ bản là vấn đề lợi ích. Đất nước khi chưa giành được chính quyền, toàn dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân để giành chính quyền về tay nhân dân. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy; mọi người đều “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, đều có lợi ích lớn nhất đó là độc lập, thống nhất Tổ quốc; mọi người đều cùng chung cái nghèo, cùng nhau chia ngọt, xẻ bùi, vui vẻ và xan xẻ cái nghèo như nhau; nhân dân đặt hết niềm tin của mình vào cán bộ của Đảng. Chính sự gắn bó máu thịt giữa cán bộ với nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần vô cùng to lớn làm nên những chiến thắng lẫy lừng. Ngày nay, Nghị quyết Trung ương 4 ( khóa XI) đánh giá: một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý nghiêm minh, tình trạng phân hoá giàu nghèo đã trở nên rõ rệt, một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết, quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm; trong khi đó các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng; làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; ảnh hưởng xấu đến tâm tư, tình cảm, nhiệt tình của những người chân chính, của nhiều cán bộ đang công tác nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa.

Để thực hiện thắng lợi 7 nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm cho công tác dân vận trong thời gian tới theo Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thì cùng với việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, triển khai Nghị quyết gắn với triển khai học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị, Ban Dân vận cần quan tâm nghiên cứu, tuyên truyền nội dung bài báo “ Dân vận” của Hồ Chủ Tịch trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; từ đó làm rõ hơn tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là phong cách quần chúng của Bác; liên hệ với thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương trong triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về công tác dân vận; từ đó nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí công tác dân vận trong tình hình mới.

Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có nhiều vấn đề mới đặt ra cần phải giải quyết cả trước mắt và lâu dài, cả thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác dân vận, Ban Dân vận tỉnh Nam Định có sự chỉ đạo mới về cả nội dung và phương thức hoạt động. Các cấp ủy Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai có hiệu quả các chủ trương, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác Dân vận; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, quan tâm giải quyết tốt các quyền và lợi ích thiết thực của nhân dân; thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm; Lãnh đạo MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, chú trọng hướng về cơ sở. Quán triệt các Quyết định số 217- QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ chính trị “Về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị”, Quyết định số 218 - QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành quy định “Về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng đảng, xây dựng chính quyền” tới đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân. Tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước, hoạt động từ thiện, nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa. Bên cạnh đó, phong trào thi đua “Dân vận khéo” được thực hiện hiệu quả, nhất là trong các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng NTM. Công tác tôn giáo được quan tâm, chú trọng, các cấp ủy Đảng thường xuyên lắng nghe tâm tư nguyện vọng và tham gia giải quyết nhu cầu chính đáng của chức sắc, tín đồ tôn giáo, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.

Trong thời gian tới, công tác Dân vận trong tỉnh tập trung tham mưu với các cấp ủy sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 157-QĐ/TU, ngày 15-4-2011 của Ban TVTU về việc ban hành “Quy chế công tác Dân vận của hệ thống chính trị”; tổng kết việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” và tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIX. Trong tình hình hiện nay, đòi hỏi công tác dân vận phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, tập trung vào những giải pháp cơ bản sau:

Một là: Tiếp tục triển khai các nhóm giải pháp về xây dựng Đảng và quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận

Hai là: Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao ý thức, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp đối với công tác dân vận

Ba là: Lãnh đạo các cơ quan nhà nước tích cực đổi mới công tác dân vận

Bốn là: Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức công tác dân vận

Năm là: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác dân vận.

Như vậy, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của đảng về công tác dân vận. Tổ chức cơ sở đảng cần coi công tác dân vận là nội dung quan trọng, nơi nào làm tốt công tác dân vận thì sẽ đạt kết quả toàn diện, vững chắc. Ngược lại, nơi nào xem nhẹ công tác dân vận, cán bộ xa rời quần chúng nhân dân, quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm, thiếu đạo đức, không lắng nghe, không tôn trọng và không quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của quần chúng nhân dân thì nơi ấy sẽ rất khó thực hiện đúng chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.



Nội dung 2.

 

NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC VÀ ĐỘNG VIÊN NHÂN DÂN

THAM GIA XÂY DỰNG ĐẢNG, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN

TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH

 

                                                            Giảng viên: Lê Thị Thu Phượng

 

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng nói chung và đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước nói riêng. Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đồng thời là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã rút ra một bài học kinh nghiệm lớn: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân”.

Nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nhân dân trong xây dựng Đảng, trong thời kỳ đổi mới, các tổ chức cơ sở Đảng đã thực hiện nhiều hoạt động thiết thực nhằm vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Nhiệm vụ đó được thể hiện tập trung ở các mặt sau:

1 - Tổ chức và động viên nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia góp ý kiến xây dựng kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị.

Tăng cường vai trò hạt nhân chính trị và lãnh đạo toàn diện của tổ chức cơ sở đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền cơ sở, Đảng cần phải coi trọng và tiến hành công tác vận động nhân dân nhằm  bảo đảm mọi chủ trương, nghị quyết của cấp ủy, mọi chính sách, quyết định của chính quyền cơ sở thực sự là sản phẩm trí tuệ  của tập thể, trí tuệ của nhân dân.

Thực tiễn đầu những năm 1980, chính sách khoán trong nông nghiệp “khoán chui” của một số hợp tác xã nông nghiệp ở Đồ Sơn (Hải Phòng), Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc) cho thấy, Đảng đã biết lắng nghe tiếng nói của dân, trân trọng những sáng kiến của dân, làm phong phú trí tuệ của Đảng. Chính những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Các chính sách ban hành xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân khi đi vào thực tiễn sẽ tạo được sự đồng thuận cao(Ví dụ như Hiến pháp 2013, Luật Đất đai 2013…). Để việc triển khai các chủ trương, chính sách mang lại hiệu quả thực sự, Đảng cũng cần có cơ chế để nhân dân  tham gia giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và các tổ chức đảng, tổ chức chính quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách. Qua đó phát hiện và xử lý những sai trái, những vi phạm; bổ sung, điều chỉnh  kịp thời những vấn đề còn chưa phù hợp của chính sách.

Trong giai đoạn hiện nay, cấp ủy và chính quyền cơ sở đã chú trọng đổi mới cơ chế và quy trình ra quyết định lãnh đạo, quản lý theo hướng công khai, dân chủ để phát huy trí tuệ của nhân dân. Vì vậy, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương được nhân dân tham gia bàn bạc, tranh luận, đóng góp ý kiến nhằm “đưa cuộc sống vào nghị quyết”. Khi tổ chức thực hiện các chủ trương đó,  lại thêm một lần sáng tạo, dựa vào dân, bàn với dân để tìm cách làm tốt nhất với mục tiêu “đưa nghị quyết vào cuộc sống”. Thực tế, có nghị quyết, quyết định đúng và trúng vẫn chưa đủ, mà cần có quyết tâm cao và phải biết dựa vào dân để tìm cách thực hiện. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”

2 - Tổ chức và động viên nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức của Đảng, Nhà nước, vận động nhân dân góp ý kiến với tổ chức đảng và cấp ủy về sự lãnh đạo, phê bình, góp ý cán bộ, đảng viên….

Xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh không chỉ là công việc của Đảng, của Nhà nước mà còn là công việc của nhân dân, trách nhiệm của nhân dân. Để làm được việc đó, một mặt Đảng phải làm tốt công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho đội ngũ cán bộ thông qua việc thực hiện tốt tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; thông qua việc xử lý nghiêm những phần tử thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền mưu cầu lợi ích cá nhân để giáo dục, răn đe. Cán bộ, đảng viên phải hiểu dân, gương mẫu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm, thực hiện tốt Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, giải quyết yêu cầu công việc của nhân dân; cần có quy định về dân chủ trong Đảng và chế độ trách nhiệm đối với nhân dân. Mặt khác, cần tổ chức và động viên nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, Nhà nước; vận động nhân dân góp ý kiến với tổ chức đảng và cấp ủy về sự lãnh đạo và khuyến khích nhân dân phê bình, góp ý cán bộ, đảng viên. Thông qua đó mà nhân dân góp sức cho xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên như Bác Hồ đã dạy: "Dân biết nhiều việc mà Đảng và Nhà nước không biết, dân có nghìn tai, nghìn mắt, cái kim trong bọc dân cũng biết”. 

Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn ở cơ sở, Đảng kiểm tra, phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Đảng lắng nghe và vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến về việc bố trí đảng viên vào các chức vụ lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và giới thiệu nhân sự cấp ủy ở cơ sở, cũng như việc xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; xây dựng cơ chế để tạo thuận lợi cho nhân dân giám sát hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên, công chức.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp ủy và phải làm đúng quy trình, quy định của Đảng, không nóng vội, chủ quan, duy ý chí.  Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn ở cơ sở, Đảng kiểm tra, phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Đảng lắng nghe và vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến về việc bố trí đảng viên vào các chức vụ lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và giới thiệu nhân sự cấp ủy ở cơ sở, cũng như việc xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; xây dựng cơ chế để tạo thuận lợi cho nhân dân giám sát hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên, công chức.

Đối với các cơ quan công quyền có quan hệ trực tiếp với nhân dân cần công khai các quy định cụ thể về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức để nhân dân biết, giám sát và kiểm tra việc thực hiện. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc, nâng cao tinh thần phục vụ trước nhân dân.  phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong các công việc hằng ngày ở ngay trên địa bàn trực tiếp nhất.

Hiện nay, các tổ chức cơ sở đảng đã thực hiện nhiều hình thức góp ý cho Đảng, Nhà nước và giám sát cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức: Việc tổ chức nhiều cuộc lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách, quyết định quan trọng ở cơ sở;  tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân; tổ chức lấy ý kiến nhận xét của nhân dân nơi cư trú (thôn, xóm, tổ dân phố) đối với cán bộ, đảng viên trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, cán bộ theo định kỳ  theo Quy định 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị “về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”; thực hiện quy định tại các cơ quan Đảng, chính quyền phải đặt hòm thư góp ý công khai tại trụ sở hoặc lấy ý kiến đóng góp qua trang thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức, thông qua tiếp xúc trực tiếp của cán bộ, đảng viên với nhân dân. …

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, ở một số địa phương, nhất là ở cơ sở, trong việc phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế. Người dân vẫn còn né tránh, e ngại trong việc góp ý, phê bình cán bộ, đảng viên, không dám tố giác tham nhũng, tiêu cực. Mặt khác, ở một số nơi, cấp ủy đảng và chính quyền nhận thức vấn đề này chưa sâu sắc và đầy đủ, tổ chức một cách hình thức, kém hiệu quả, thậm chí có nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, ngại tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, chỉ thích nghe khen, nghe tiếng nói xuôi chiều, không thực hiện công khai, minh bạch, thiếu trách nhiệm trong giải quyết các nguyện vọng, yêu cầu bức xúc của người dân, không tổ chức các cuộc hội nghị để nhân dân góp ý phê bình cán bộ, đảng viên và cấp ủy đảng, cơ quan chính quyền, không thực hiện giải trình trước nhân dân . Vì vậy, trong thời gian tới cần đổi mới và thực hiện có hiệu quả hơn nữa các hình thức để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình để góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu trong công cuộc đổi mới hiện nay.

3 - Có cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh thông qua việc thực hiện tốt quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Dựa vào đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên để giới thiệu những đoàn viên, hội viên ưu tú cho Đảng bồi dưỡng, kết nạp.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là những tổ chức rộng rãi của quần chúng nhân dân, làm tham mưu và nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ, ý thức trách nhiệm của công dân trong thực hiện giám sát xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh đã được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và trong một số văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật của nhà nước. Ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định 217-QĐ/TW, Quyết định 218-QĐ/TW về "Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội" và "Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền". Trong đó, MTTQ được xem là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân; đồng thời cũng là nơi tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp quy định; nhất là quyền giám sát và phản biện.

MTTQ cùng các tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở đã chủ động, tích cực tiến hành nhiều hoạt động giám sát và phản biện xã hội. Như giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giám sát thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư; giám sát đầu tư của cộng đồng; lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ chủ chốt do hội đồng nhân dân (HĐND) cấp xã bầu; giám sát thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đã tiến hành các hoạt động mang tính chất phản biện xã hội, như hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp; tham gia góp ý văn kiện đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng; góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vừa qua, tham gia góp ý vào các dự thảo kế hoạch, chương trình, đề án về phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương cơ sở… ... Từ đó góp ý, kiến nghị cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục những hạn chế, thiếu sót, nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác lãnh đạo của cấp ủy và quản lý của chính quyền cơ sở.

Bên cạnh đó, việc xây dựng đội ngũ đảng viên nói chung và chăm lo công tác phát triển đảng viên mới nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Để phát triển đảng viên cần phải dựa vào các đoàn thể nhân dân, thông qua sự phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, để giới thiệu những đoàn viên ưu tú kết nạp vào Đảng, nhằm tăng thêm “sinh lực” cho Đảng, bảo đảm sự phát triển bền vững lâu dài. Tham gia xây dựng Đảng, bồi dưỡng giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp vừa là vinh dự vừa là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Đoàn.  Đây là cầu nối đảm bảo cho sự phát triển của Đảng cũng như sự bền vững của tổ chức Đoàn như Điều lệ Đảng đã khẳng định: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh”  “là xây dựng Đảng trước một bước"

Như vậy, để xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, nhiệm vụ cấp bách và cơ bản là phải củng cố và tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy mạnh mẽ vai trò của nhân dân đáp ứng trước yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng: “Với vị trí nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, vai trò của tổ chức cơ sở đảng rất quan trọng. Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch, vững mạnh”

Nam Định là một tỉnh nằm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ gồm 10 huyện, thành với 229 xã, phường, thị trấn. Đảng bộ tỉnh Nam Định hiện có 16 Đảng bộ trực thuộc với 1.036 tổ chức cơ sở Đảng, 104.638 đảng viên. Cùng với việc tập trung phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm trật tự an ninh, các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương của tỉnh còn chú trọng và đẩy mạnh thực hiện công tác dân vận, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó tham gia giải quyết có hiệu quả những vấn đề phức tạp, bức xúc. Thực hiện tốt chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân và chế độ tiếp dân định kỳ theo quy định; nghiêm túc tiếp thu ý kiến phê bình, góp ý của nhân dân về công tác quản lý, về thái độ và phong cách làm việc của cán bộ, công chức; kịp thời giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo và những vấn đề bức xúc của nhân dân. Đồng thời tuyên truyền và tạo cơ chế để nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, an toàn xã hội. Vì vậy đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng Đảng, chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh gắn với thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.

Theo Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ tỉnh Nam Định tại Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, nhiệm kỳ 2010 – 2015 tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 93,95% ( chỉ tiêu 93-94%), tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ 84,91%.

Tổng hợp kết quả đánh giá xếp loại chính quyền vững mạnh cấp xã năm 2014, có 149 đơn vị (65,1%) đạt tiêu chuẩn vững mạnh; 63 đơn vị (27,5%) đạt khá; 12 đơn vị (5,2%) xếp loại trung bình và 05 đơn vị (2,2%) xếp loại yếu kém.

Từ kết quả trên cho thấy tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng và chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh không ngừng được tăng lên đã tạo được niềm tin, phấn khởi trong nhân dân đối với sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự điều hành của chính quyền trong việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại địa phương. Thông qua đó nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của chính quyền cơ sở. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, củng cố chính quyền cơ sở gắn với việc vận động nhân dân tham gia cũng đang còn đặt ra những vấn đề cần phải tiếp tục quan tâm giải quyết như: Việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng đối với hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền cơ sở; việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở, nhất là vai trò, vị trí của HĐND với chức năng là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân địa phương; việc thực hiện quyền giám sát hoạt động điều hành của UBND trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở địa phương; việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ cơ sở có chuyên môn phù hợp, có nghiệp vụ quản lý, có trình độ lý luận chính trị tương xứng với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cơ sở theo luật định; việc đổi mới sự lãnh đạo của cấp trên đối với cơ sở .

Như vậy, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức thực hiện công tác vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền trong sạch, vững mạnh là một trong những nội dung quan trọng để góp phần thực hiện tốt mục tiêu “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ; phát huy truyền thống văn hiến, anh hùng, sức mạnh đoàn kết toàn dân; tạo bước đột phá về phát triển kinh tế; phấn đấu đến năm 2020, Nam Định là tỉnh Nông thông mới, có nền công nghiệp phát triển nhanh theo hướng hiện đại” như chủ đề Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã đề ra.

 

Nội dung 3.

TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG VỚI VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG    

CÔNG TÁC CHĂM LO LỢI ÍCH HỢP PHÁP, CHÍNH ĐÁNG

CỦA NHÂN DÂN

 

                                                                        Giảng viên: Nguyễn Thị Nga

 

Chăm lo lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân là một nội dung quan trọng trong công tác dân vận của Đảng, của các tổ chức cơ sở đảng. Vấn đề này đã được khẳng định là một trong 5 quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết số 25 - NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” do Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ban hành ngày 03/6/2013: “Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh.

Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng lợi ích chính là cái kích thích hành vi của con người. Mác nói: “Không có lợi ích thì không có gì cả”, tất cả những gì người ta đấu tranh để giành lấy và đạt được đều gắn liền với lợi ích của họ. Lợi ích là động lực để sản xuất, phát triển xã hội. Không có hoạt động nào của con người mà lại không có mục đích và vì lợi ích nào đó .

Lênin đã cụ thể hoá về lợi ích và nhấn mạnh lợi ích thiết thân của cá nhân người lao động: “Những lý tưởng cao cả nhất cũng không đáng một xu nhỏ, chừng nào người ta không biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng đó với lợi ích của chính ngay những người đang tham gia cuộc đấu tranh kinh tế, chừng nào người ta không biết kết hợp những lý tưởng đó với những vấn đề “chật hẹp” và nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày của giai cấp ấy như vấn đề trả công lao động một cách công bằng …”

Đảng ta cũng đã xác định: Lợi ích là động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng đồng thời cũng là mục tiêu của Đảng, của cách mạng. Vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đường lối chính trị, các chủ trương, chính sách của Đảng luôn hướng tới đáp ứng yêu cầu nguyện vọng, lợi ích của người dân nên nhân dân rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Ví dụ khẩu hiệu cách mạng: “Độc lập dân tộc, ruộng đất dân cày”, chính sách giảm tô, giảm tức sau khi giành được độc lập... đây là những khẩu hiệu, chính sách đã đặt lợi ích của đa số nhân dân lên ngang bằng lợi ích của dân tộc.

Lợi ích của nhân dân bao gồm lợi ích vật chất và tinh thần.

Lợi ích vật chất thể hiện ở lợi ích kinh tế, tức quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vai trò của người dân trong lao động, trong hưởng thụ và phân phối của cải.... Lợi ích vật chất được biểu hiện trong đời sống hàng ngày qua: ăn, mặc, ở, học hành đi lại…

Lợi ích tinh thần gồm lợi ích chính trị, quyền làm chủ (quyền tự do bầu cử, ứng cử, tham gia hoạt động quản lý nhà nước ..), lợi ích xã hội (mối quan hệ giữa xã hội và gia đình), lợi ích được chăm lo phát triển toàn diện con người, được học hành, phát triển tài năng…

Trong giai đoạn hiện nay, để vận động người dân thì đảng, các tổ chức cơ sở đảng không chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất mà còn cần quan tâm đến lợi ích tinh thần của người dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, chú trọng khâu huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân. Đồng thời, cần có cơ chế gắn kết chặt chẽ giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân, khắc phục tư tưởng coi nhẹ lợi ích tập thể và xã hội chỉ quan tâm đến quyền lợi mà quên đi nghĩa vụ hoặc ngược lại.

Trong bài báo Dân vận đăng trên báo Sự thật ngày 15/10/1949, trước khi trình bày về công tác dân vận, Bác Hồ nhấn mạnh vấn đề dân chủ. Bác nói: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính Phủ trung ương là do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân ”.

Theo Bác dân chủ có tác dụng vô cùng to lớn: Có dân chủ thì cán bộ, quần chúng mới đề ra sáng kiến. Càng dân chủ cao thì càng động viên được lực lượng của dân. Có dân chủ thì mới tạo được sự đoàn kết nhất trí cao.

Như vậy “Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân. Phải làm cho dân hiểu dân chủ là gì và hưởng quyền dân chủ của mình như thế nào? ”

Cùng với việc chăm lo lợi ích thiết thực, nâng cao tinh thần yêu nước trong nhân dân công tác dân vận cần phải hết sức coi trọng vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Để nâng cao chất lượng công tác chăm lo lợi ích hợp pháp và chính đáng cho nhân dân, trong thời gian tới các tổ chức cơ sở đảng ở Nam Định cần tập trung vào sáu vấn đề sau:

Thứ nhất: Coi trọng phát triển kinh tế của địa phương và việc phát triển kinh tế phải luôn luôn nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho người dân.

Thứ hai: Cần thực thi các chính sách xã hội một cách đúng đắn và có hiệu quả để tạo thành một động lực to lớn, để ổn định xã hội, phát huy mọi tiềm lực vật chất, tinh thần, tài năng sáng tạo của các tầng lớp nhân dân địa phương. Trong đó cần thực hiện tốt các chính sách đối với những tầng lớp xã hội như những người có công với nước, phụ nữ, nông dân, thanh niên .... Đối với các tầng lớp xã hội này cần phải có biện pháp quan tâm cụ thể bằng các cơ chế, việc làm phù hợp để tạo điều kiện cho họ có thể hòa nhập và cống hiến cho xã hội.

Thứ ba: Sự quan tâm chăm lo đời sống nhân dân không chỉ dừng lại ở sự giúp đỡ về vật chất mà quan trọng hơn là phải tổ chức, tạo điều kiện cho nhân dân tự xây dựng đời sống hạnh phúc cho mình bằng cách chăm lo phát triển văn hóa, giáo dục, y tế để người dân có thể tham gia xây dựng, cung cấp và hưởng thụ một cách tốt nhất các dịch vụ trong các lĩnh vực này.

Thứ tư: Tuyên truyền, vận động thông qua nhiều hình thức, cách làm phong phú, sinh động, rộng khắp và phù hợp với từng đối tượng vận động về các quy chế, quy định đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân để nhân dân nhận thức và tự thực hiện cũng như tự bảo vệ được các quyền tự do dân chủ của mình, qua đó góp phần củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân.

Thứ năm: Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân thông qua việc tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy với nhân dân; tổ chức lấy ý kiến nhận xét của nhân dân nơi cư trú đối với cán bộ, đảng viên trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên theo định kỳ.

Thứ sáu: Xử lý nghiêm những đối tượng thoái hóa, biến chất, ức hiếp nhân dân, vi phạm quyền lợi chính đáng của nhân dân, không còn tín nhiệm trong nhân dân. Quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân, như việc làm; giải tỏa, đền bù, thu hồi đất; tai nạn giao thông; tệ nạn xã hội...

Tóm lại, các tổ chức cơ sở đảng cần có những hoạt động cụ thể, thiết thực để chăm lo, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân. Có như vậy mới củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, mới phát huy được sức mạnh của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

 

Nội dung 4.

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở  CƠ SỞ

 

Giảng viên: Cù Thị Vân

 

Công tác vận động và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ công tác dân vận của Đảng. Dân chủ là khát vọng sâu xa của quần chúng nhân dân lao động, là yêu cầu bức thiết của cuộc sống. Trong xã hội ta, xã hội do nhân dân làm chủ, thì dân chủ  không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là cơ chế  phương thức để vận hành quyền lực của nhân dân trong quản lý nhà nước và tổ chức đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện để mở rộng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn vậy, vấn đề trung tâm là phải xâydựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hướng tới giá trị dân chủ và khát khao đưa dân tộc ta đạt được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho nhân dân Việt Nam có được một cuộc sống độc lập, tự do, dân chủ và giàu mạnh. Theo Người, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Thực hiện lý tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh, xác định đúng đắn ý nghĩa to lớn của dân chủ. Ngay từ khi ra đời cho tới nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc xây dựng nền dân chủ nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân để đưa cách mạng nước ta vượt mọi gian nan thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng khác. Nhưng  trong  quá  trình  thực  hiện,  ở một số nơi có lúc đã vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của người dân làm cho kinh tế lâm vào khủng hoảng, trì trệ, kém phát triển, làm ảnh hưởng không nhỏ đến ổn tình hình chính trị - xã hội ở một số địa phương. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm đầu tiên đó là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Từ nhận thức trên, khi bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hoá đời sống xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm, đặc biệt là dân chủ hoá đời sống xã hội từ cơ sở. Chính vì vậy, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị 30CT/TW “Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”. Tiếp đó, ngày 11/5/1998, để cụ thể hoá Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29NĐ/CP ban hành về “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã”. Tiếp đến, ngày 7/7/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2003/NĐ - CP về “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã” nhằm phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Trong thời gian qua, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Đảng và Nhà nước ta thấy rõ hiệu quả và thành công bước đầu được của việc thực hiện dân chủ trong  đời sống nhân dân và xây dựng đất nước,  ngày 20/4/2007 Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội có Pháp lệnh số 34/2007/PL -UBTVQH  “Về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” nhằm đẩy mạnh hơn nữa và luật hoá việc thực hiện dân chủ trong đời sống nhân dân và xây dựng đất nước.

Đến nay việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. Thực tế trên toàn quốc cho thấy đã đạt được những kết quả rất quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; nhận thức về quyền làm chủ của nhân dân từng bước được nâng cao, phát huy được trí tuệ và công sức của các tầng lớp nhân dân, động viên các nguồn lực tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần đổi mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức; góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tuyên truyền, vận động thuyết phục nhân dân tham gia, ủng hộ các hoạt động phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội.

Đối với tỉnh Nam Định thời gian qua, việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã đạt được nhiều kết quả rõ nét, quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát huy, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Những nội dung cơ bản của Quy chế dân chủ đã và đang trở thành phương châm hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân. Nhận thức rõ việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân là động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh tại địa phương, Cấp uỷ - Chính quyền các cấp trong tỉnh đã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở theo hướng toàn diện sâu sát, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm. Công tác dân chủ được các cấp uỷ thực hiện nghiêm túc trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các nhiệm vụ ở địa phương. Nhiều chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích của người dân được công khai, đưa ra người dân bàn bạc, thảo luận trước khi thực hiện.

Thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” các cấp uỷ Đảng đã tổ chức cho nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp các nội dung xây dựng nông thôn mới, mức đóng góp xây dựng nhà văn hoá, đường giao thông thôn xóm, giao thông nội đồng, công tác dồn điền đổi thửa, bình chọn các đối tượng hưởng chính sách xã hội hộ nghèo.v.v.... Việc thực hiện Quy chế dân chủ được triển khai dưới nhiều hình thức như thông qua các cuộc họp dân, các cuộc tiếp xúc cử tri, hoặc niêm yết các thông tin công khai tại nơi công cộng để nhân dân được biết. Ngoài ra còn có sự hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng, tổ chức hoà giải kịp thời tham gia, phối hợp với chính quyền giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong nhân dân góp phần giữ gìn an ninh trật tự trong địa bàn dân cư. Đến nay, toàn tỉnh đã thành lập 3.773 tổ hoà giải cơ sở; có 221/229 (đạt 95%) xã, phường, thị trấn thành lập Ban giám sát đầu tư cộng đồng. Hàng năm các đơn vị đều rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động cho phù hợp với các quy định và tình hình của địa phương; trên 90% Ban Thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng xếp loại Khá, Tốt. Tại các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp đã được quan tâm và thực hiện đầy đủ nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là công bộc của nhân dân, có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, làm việc có năng xuất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước; Phòng ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Đến nay 100% số cơ quan có nội quy cơ quan, quy chế chi tiêu tài chính và sử dụng tài sản công ; 85% cơ quan có Quy ước nếp sống văn hoá; 96 % cơ quan có quy chế tổ chức và hoạt động của cơ quan; 95% cơ quan có Quy chế hoạt động của Ban thanh tra nhân dân; 90% cơ quan có Quy chế tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo; 97% cơ quan có quy chế tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, nhận xét, đánh giá cán bộ công chức. Công tác tiếp dân được duy trì thường xuyên, đúng quy chế, giải quyết khiếu nại, tố cáo được tập trung chỉ đạo kiên quyết, nghiêm túc, thận trọng, hạn chế tối đa tình trạng khiếu kiện đông người.

Đối với các doanh nghiệp đã quan tâm chỉ đạo, triển khai thực hiện Nghị định 60/2013/NĐ-CP, ngày 19/6/2013 của chính phủ Về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việcthông qua nhiều hình thức( đối thoại tại nơi làm việc, hội nghị người lao động, tổ chức cuộc họp, thông tin công khai, niêm yết và các phương tiện thông tin…) đến nay 206 doanh nghiệp tổ chức thương lượng và ký kết lao động tập thể ; 88 doanh nghiệp xây dựng Quy chế đối thoại định kỳ ; 72 doanh nghiệp thành lập tổ đối thoại và tiến hành tổ chức đối thoại với người lao động ở nơi làm việc; 220 doanh gnhiệp xây dựng quy chế hội nghị người lao động; 226 doanh nghiệp tổ chức hội nghị người lao động.

Nhìn chung  công tác tuyên truyền, việc tổ chức hội nghị người lao động đối thoại tại nơi làm việc được quan tâm triển khai thực hiện. Nhận thức của người sử dụng lao động cũng như người lao động về dân chủ và quyền làm chủ tại nơi làm việc được nâng lên; vai trò của các hội, đoàn thể đại diện cho người lao động trong doanh nghiệp được khẳng định.

Từ những kết quả trên có thể khẳng định, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần làm cho hệ thống chính trị ở xã, thị trấn, các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp của tỉnh Nam Định tiếp tục được củng cố, kiện toàn; Ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.

Để công tác vận động và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ngày càng đạt được kết quả cao tổ chức cơ sở đảng cần có các giải pháp sau đây:

Thứ nhất: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những chủ trương chỉ đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn như: Chỉ thị số 30 CT/TW, ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về xây dựng và thực hiện Quy chế ở cơ sở”.Gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 ( Khoá XI) “ Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Pháp lệnh số 34/2007/UBTVQH  ngày 20/4/ 2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Thứ hai: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ ban hành “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan” gắn thực hiện dân chủ ở cơ sở với cải cách thủ tục hành chính nhất là thường xuyên rà soát, loại bỏ hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ các thủ tục hành chính không còn phù hợp theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp; thực hiện tốt việc công khai minh bạch về tài chính, chế độ chính sách, công tác cán bộ. Hình thức công khai phong phú, đa dạng và linh hoạt phù hợp với tình hình của cơ quan, đơn vị đảm bảo tất cả các thông tin đều đến được với cán bộ, công chức, viên chức.

Thứ ba: Thực hiện tốt các nội dung, hình thức công khai theo đúng quy định tại Quyết định số 05/2014/QĐ- TTg ngày 15/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về “Công khai chế độ, chính sách liên quan đến phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức” để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến và giám sát.

Thứ tư: Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ tại cơ quan, đơn vị; đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua yêu nước gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với công tác dân vận của chính quyền và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay. Định kỳ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; biểu dương, khen thưởng hoặc đề xuất Ủy ban nhân dân quận khen thưởng những tập thể, cá nhân thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Thứ năm: Để công tác vận động và tổ chức  thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đạt quả cao, cần phải đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục và thường xuyên đổi mới. Chú trọng đến trình độ, phong tục, tập quán của từng đối tượng để lựa chọn những hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp. Cung cấp các tài liệu cần thiết về thực hiện dân chủ ở cơ sở để trang bị đầy đủ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Kiên quyết khắc phục tình trạng người dân không biết hoặc không nắm được đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn do không được cung cấp thông tin, tài liệu.

Hiện nay, công tác vận động và tổ chức  thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa vô cùng to lớn vì cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi. Do vậy sự ra đời của quy chế dân chủ ở cơ sở là một bước đột phá quan trọng trong việc hiện thực hoá bản chất dân chủ của nước ta. Quy chế dân chủ là văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hoá quản lý công của nhân dân cơ sở, nhằm phát huy nội lực và sức sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nước. Toàn bộ HTCT có vai trò hết sức quan trọng và mang tính quyết định trong việc tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong  hội viên, nhân dân quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm mục đích người dân sử dụng đúng quyền và nghĩa vụ công dân, quyền của các tổ chức chính trị xã hội đã được quy định trong quy chế dân chủ; phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện quy chế dân chủ và giám sát thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.  

 

Nội dung 5.

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN

THAM GIA PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC

CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở NAM ĐỊNH

 

                                                Giảng viên: Mai Thị Thanh Hương

 

            Sinh thời, Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến vấn đề thi đua yêu nước, Người coi đó là một bộ phận không thể thiếu trong công tác quản lý của Nhà nước, đồng thời bản thân Người cũng là tấm gương mẫu mực trong mọi phong trào thi đua do chính Người khởi xướng. Người từng nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Nhận thức được tầm quan đó, Đảng ta coi việc tổ chức nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước là một nội dung quan trọng trong công tác dân vận của Đảng nói chung, của các tổ chức cơ sở đảng nói riêng.

            Nói về vai trò và vị trí của các phong trào thi đua, không thể phủ nhận phong trào thi đua có tác dụng động viên mọi người tự nâng cao trình độ, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công tác. Nó còn là biện pháp quan trọng để khơi dậy tiềm năng, lòng nhiệt tình và tạo động lực trong lao động. Đồng thời nó hạn chế những tiêu cực nảy sinh và góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Như vậy triển khai sâu rộng, hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước chính là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

C.Mác – Ph.Ănghen là những người đầu tiên nghiên cứu một cách khoa học về bản chất và nội dung của thi đua. Theo Mác – Ăngghen, ở đâu có hợp tác lao động thì ở đó sẽ nảy sinh ra thi đua và thi đua được coi như nghị lực sống của con người nhằm nâng cao năng suất lao động.

Tiếp thu quan điểm của Mác và Ăngghen, V.I.Lê-nin đã đưa ra khái niệm thi đua XHCN. Ông coi thi đua XHCN là hình thức hợp tác giữa người với người, ra đời trên cơ sở lao động tập thể và những mối quan hệ tương trợ, đoàn kết giữa những người đồng chí với nhau.

            Vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về thi đua vào hoàn cảnh nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng quan niệm về thi đua lên một tầm tư tưởng mới: thi đua là biểu hiện của lòng yêu nước, là cốt cách và phẩm chất đạo đức của người Việt Nam yêu nước. Người chỉ rõ: “Cách mạng càng khó khăn, càng phải tổ chức các phong trào thi đua yêu nước” và “Hễ là người Việt Nam yêu nước thì phải thi đua, thi đua là yêu nước. Thi đua là một cách yêu nước thiết thực nhất...”. Vì thế ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, Nhà nước lần đầu tiên chính thức phát động phong trào thi đua ái quốc.

Thấm nhuần quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, Quốc hội đã ban hành Luật thi đua khen thưởng năm 2003, sửa đổi năm 2013. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định 258/QĐ-TTg ngày 4/3/2008 về việc lấy ngày 11- 6 hằng năm là Ngày Truyền thống thi đua yêu nước và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác thi đua khen thưởng. Bộ chính trị cũng ra Chỉ thị 35- CT/TW ngày 3-6-1998 về đổi mới công tác thi đua khen thưởng trong giai đoạn mới, chỉ thị 39-CT/TW ngày 21-5-2004 về “Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến; và chỉ thị 34-CT/TW ngày 7/4/2014 về tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng. Trong đó Đảng ta tiếp tục khẳng định các phong trào thi đua yêu nước chính là động lực phát triển KT-XH, là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới; thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên, liên tục hàng ngày.

Về bản chất, thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân¸ tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong công tác thi đua, một yếu tố rất quan trọng đó là khen thưởng. Thi đua là cơ sở của việc khen thưởng. Chính trên nền tảng của phong trào thi đua mới có thể lựa chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu nhất, xứng đáng nhất cho việc khen thưởng. Như vậy thi đua và khen thưởng bổ sung, hỗ trợ cho nhau và gắn bó với nhau.

Có hai hình thức tổ chức phong trào thi đua là thi đua thường xuyên và thi đua theo đợt. thi đua thường xuyên là căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao của cá nhân, tập thể để thực hiện tốt công việc hàng ngày, hàng tháng, hàng quý, hàng năm của đơn vị. Thi đua theo đợt (hoặc thi đua theo chuyên đề) là để thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm trong khoảng thời gian nhất định hoặc để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị mà nội dung có tính chất chuyên môn, ngành nghề.

Nguyên tắc tổ chức thi đua: Thứ nhất, phải công khai cho đông đảo quần chúng biết mục đích, yêu cầu, nội dung, chỉ tiêu, danh hiệu, chế độ khen thưởng, kết quả của các phong trào thi đua. Thứ hai, phải so sánh giữa các kết quả, các sáng kiến để chọn lọc những sáng tốt phù hợp với thực tiễn. Thứ ba, phải thực hiện tập trung dân chủ trong thi đua, tức là tập trung sự lãnh đạo của tổ chức đối với phong trào, dẫn dắt phong trào đi đúng hướng nhưng đồng thời phải đảm bảo tính dân chủ để quần chúng tự nguyện, tự giác tham gia phong trào và khai thác được khả năng sáng tạo của quần chúng. Thứ tư, phải bảo đảm sự lãnh đạo vì thi đua là một công cụ được sử dụng nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chính sách đã đề ra. Thông qua các phong trào thi đua, các nghị quyết, kế hoạch, chương trình hành động trở nên sinh động nhờ thực tiễn và được kiểm tra trong thực tiễn. Do đó, tự bản thân phong trào thi đua đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy đảng. Thứ năm, phải đảm bảo nguyên tắc kết hợp giáo dục chính trị - tư tưởng với khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần. Thực tiễn cho thấy, nếu biết quan tâm giáo dục tốt về chính trị và nhiệt tình cách mạng cho quần chúng thì quần chúng sẽ có thói quen lao động mà không chờ vào việc khen thưởng, không có sự mặc cả trong thi đua. Tuy nhiên lợi ích vật chất đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, do đó kích thích bằng lợi ích vật chất sẽ là một phương tiện quan trọng để tổ chức, duy trì, phát triển phong trào thi đua. Do đó nguyên tắc kết hợp giữa giáo dục chính trị - tư tưởng với khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân là nguyên tắc không thể thiếu trong tổ chức các phong trào thi đua của tổ chức cơ sở đảng.

Đối với tỉnh Nam Định, để phong trào thi đua yêu nước có sức lan toả đi vào chiều sâu, Tỉnh ủy Nam Định đã tổ chức học tập, quán triệt, triển khai và cụ thể hoá đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, 9 (khoá XI); các Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh; phát động thi đua thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Tỉnh uỷ còn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng thực hiện hiệu quả các nội dung Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; phát động thi đua “Xây dựng NTM giai đoạn 2010-2015” và thi đua nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh với chủ đề: “Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân tỉnh Nam Định chung sức đồng lòng, thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh năm 2015”; thi đua đặc biệt chào mừng đại hội Đảng các cấp và các ngày lễ lớn kỷ niệm trong năm.

Được sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, các tổ chức cơ sở Đảng trong tỉnh đã quán triệt, triển khai nghiêm túc, kịp thời các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền, các đoàn thể chính trị ở cấp xã, trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang. Thông qua tổ chức phong trào thi đua, các tổ chức cơ sở Đảng đã thực hiện hiệu quả việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phát triển văn hoá - giáo dục, bảo đảm an ninh nông thôn, an ninh đô thị…Các tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp cũng đã tham gia xây dựng và lãnh đạo hiệu quả nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh. Nhìn chung trong những năm qua, các tổ chức cơ sở đảng đã có nhiều nỗ lực khắc phục khó khăn, đẩy mạnh các phong trào thi đua, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh.

Quá trình tổ chức phong trào thi đua của các tổ chức cơ sở đảng có một số ưu điểm và hạn chế sau:

            * Về ưu điểm:

          Việc tổ chức nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước trong những năm qua đã có chuyển biến tích cực góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội. Các phong trào thi đua được tổ chức sâu rộng, có nhiều sáng tạo, từng bước đổi mới về nội dung và hình thức, bám sát thực tiễn, đã gắn với Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở từng đơn vị cơ sở. Công tác khen thưởng được tiến hành chặt chẽ, bài bản, qua đó đã kịp thời động viên, tôn vinh kịp thời những tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc. Nhờ đó đã góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, củng cố xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể ngày càng vững mạnh.

            * Về hạn chế:

Phong trào thi đua ở các tổ chức cơ sở phát triển chưa đồng đều, liên tục, nhiều nơi còn mang nặng tính hình thức, chậm đổi mới, thiếu sáng tạo, áp đặt từ trên xuống. Chỉ tiêu thi đua còn chung chung, chủ yếu sao chép nội dung của cấp trên, chưa cụ thể hóa cho sát với đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị cơ sở. Các phong trào thi đua còn “chồng lấn” nhau, phong trào này chưa kết thúc đã có phong trào khác, dẫn đến nhàm chán. Thậm chí có tình trạng có “phát” nhưng không “động”. Trong khi đó công tác chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện ở một số cơ sở chưa thường xuyên, sâu sát.

            Phong trào thi đua ở một số đơn vị cơ sở chưa được lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền cơ sở quan tâm đúng mức; còn có biểu hiện coi nhẹ việc tổ chức phát động phong trào thi đua. Một số đơn vị cơ sở mới chỉ tập trung vào xét đề nghị khen thưởng, chưa gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị do đó chưa tạo được động lực thi đua, khí thế sôi nổi trong cơ quan, đơn vị.

             Việc bình xét thi đua, đề nghị khen thưởng và tặng các danh hiệu thi đua thiếu kịp thời, chính xác, có biểu hiện nể nang, cào bằng theo số lượng được phân bổ tạo tâm lý không mặn mà với các phong trào thi đua. Chưa chú trọng khen thưởng cho những người lao động trực tiếp ít và còn tồn tại các biểu hiện tiêu cực, thương mại hóa trong việc suy tôn, bình xét khen thưởng.

            Một số đơn vị cơ sở chưa hoặc ít sử dụng thẩm quyền của cấp mình theo Luật quy định để biểu dương khen thưởng (tặng các danh hiệu thi đua, tặng giấy khen ở cấp xã, các đơn vị kinh tế, đơn vị sự nghiệp...). Công tác tuyên truyền, tổ chức học tập các điển hình tiên tiến, mô hình mới còn nhiều hạn chế.

            Chính những tồn tại, bất cập này đã làm giảm ý nghĩa và vai trò của việc tổ chức các phong trào thi đua yêu nước. Để khắc phục những hạn chế và nâng cao chất lượng công tác tổ chức nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các tổ chức cơ sở Đảng nói chung và tổ chức cơ sở đảng tỉnh Nam Định nói riêng cần tập trung vào những vấn đề sau:

Thứ nhất, Sự lãnh đạo của người đứng đầu cấp ủy cơ sở là yếu tố quyết định để tổ chức các phong trào thi đua có hiệu quả. Do đó phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ cơ sở trong tổ chức, triển khai các phong trào thi đua nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực, tránh tình trạng khen thưởng tràn lan, không thực chất. Mỗi chi bộ, đảng viên cần phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân trong các phong trào thi đua ở cơ sở.

Thứ hai, nội dung phong trào thi đua phải gắn liền với nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đơn vị cơ sở trong từng giai đoạn cụ thể. Coi trọng việc xây dựng kế hoạch, nội dung, chương trình, tiêu chí thi đua. Muốn vậy:

Xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu, đối tượng, nội dung, biện pháp, phạm vi tổ chức phong trào thi đua.

            Khi xây dựng kế hoạch thực hiện các phong trào thi đua cần có nội dung kiểm tra, giám sát, phân công trách nhiệm và tiến độ thực hiện. Kế hoạch phải cụ thể rõ ràng.

            Gắn kết các phong trào thi đua với việc đẩy mạnh việc“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh luôn sống mãi qua các phong trào thi đua yêu nước, qua đó nâng cao chất lượng các phong trào thi đua. Chẳng hạn: Từ các chuyên đề liên quan đến việc“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các đơn vị cơ sở có thể gắn với nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn để đổi mới, đa dạng hóa các nội dung phong trào thi đua.

            Bên cạnh các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị thường xuyên, cần phát động các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ đột xuất, cấp bách hoặc những nhiệm vụ để giải quyết những khó khăn của đơn vị cơ sở. Để làm tốt nội dung này đòi hỏi phải nhanh nhạy nắm bắt những vấn đề khó khăn của đơn vị cơ sở và chủ động tìm tòi, đề xuất phương thức tháo gỡ thông qua việc tổ chức các phong trào thi đua theo chuyên đề hoặc thi đua đột xuất.

            Thứ ba, đổi mới hình thức tổ chức phong trào thi đua yêu nước để làm phong trào thêm sinh động, đa dạng, hấp dẫn. Điều này đòi hỏi:

            Ngay từ khâu phát động, triển khai phong trào phải gây được ấn tượng, gây được sự chú ý. Hình thức tổ chức các phong trào thi đua phải gắn với sự kiện chính trị xã hội, ngày truyền thống, ngày kỷ niệm của đất nước hoặc các sự kiện lớn hay nhiệm vụ chính trị của đơn vị cơ sở. Điều này sẽ giúp tập hợp được đông đảo lực lượng tham dự nhờ đó việc phát động các phong trào thi đua yêu nước cũng dễ dàng hơn.

            Phát động phong trào thi đua nên gắn với các hoạt động bề nổi như văn hóa, thể thao để tạo khí thế.

            Hình thức tổ chức phong trào thi đua phải phù hợp với nội dung, đối tượng tham gia và đặc điểm, nhiệm vụ của từng đơn vị cơ sở. Muốn vậy, đơn vị cơ sở cần nghiên cứu khả năng, điều kiện, chức năng, nhiệm vụ và nhất là đối tượng sẽ tham gia phong trào để thiết kế hình thức tổ chức phù hợp. Điều này sẽ sẽ tạo nên hiệu quả cao của các phong trào thi đua yêu nước.

            Thứ tư, tăng cường phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến. Để tổ chức phong trào thi đua đạt hiệu quả, cần coi trọng việc phát hiện và bồi dưỡng điển hình tiên tiến bằng nhiều hình thức, qua đó biểu dương, tôn vinh các điển hình để tạo sức lan toả trong toàn xã hội.

            Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền các phong trào thi đua làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, người lao động trong các đơn vị cơ sở coi phong trào thi đua là động lực to lớn để thực hiện nhiệm vụ chính trị. Để làm được điều này phải tích cực tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông, tuyên truyền qua các hoạt động. Ngoài ra có thể sử dụng các hình thức tuyên truyền khác như: mời báo cáo viên, tuyên truyền viên,… Đẩy mạnh công tác tuyên truyền là biện pháp vô cùng hiệu quả trong việc phát triển các phong trào thi đua yêu nước.

            Thứ sáu, xây dựng qui trình tổ chức các phong trào thi đua gồm các bước:

            Xây dựng kế hoạch phát động và tổ chức phong trào thi đua yêu nước: Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, các đơn vị cơ sở xem xét điều kiện của cơ quan đơn vị, địa phương và khả năng của đối tượng tham gia để xây dựng kế hoạch phát động phong trào. Trong kế hoạch phải xác định rõ mục đích, yêu cầu, mục tiêu, chỉ tiêu, đối tượng nội dung, giải pháp, thời gian, tiến độ, nguồn lực, phân công tổ chức thực hiện. Triển khai thực hiện phong trào: gồm phát động phong trào; hướng dẫn, đôn đốc; kiểm tra giám sát; sơ kết tổng kết, rút kinh nghiệm; khen thưởng và bồi dưỡng nhân điểm hình.

            Thứ bảy, công tác sơ kết, tổng kết, khen thưởng phong trào. Các phong trào thi đua cần được kiểm tra, sơ, tổng kết nhằm đánh giá đúng những kết quả đạt được, chỉ ra tồn tại, hạn chế và hướng khắc phục. Qua đó rút ra cách làm hay, kinh nghiệm tốt để bồi dưỡng, nhân ra diện rộng. Việc đánh giá không sát, không đúng, né tránh sự thật sẽ là trở ngại lớn trong quá trình tổ chức các phong trào thi đua. Khi sơ, tổng kết phong trào thi đua cần coi trọng việc động viên khen thưởng kịp thời đồng thời nêu gương, giáo dục và tạo sự lan tỏa trong cộng đồng.

            Tóm lại: tổ chức nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước có vai trò rất quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước và nhiệm vụ chính trị của đơn vị cơ sở. Do đó một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng công tác này đòi hỏi phải có sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo của người đứng đầu cấp ủy cơ sở. Đồng thời phải đổi mới về nội dung, hình thức tổ chức, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục và khi tổ chức phải có quy trình rõ ràng, có sơ kết, tổng kết và khen thưởng những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc. Có như vậy, mới có thể phát huy thực sự sức mạnh của quần chúng nhân dân./.

(Nguồn: Khoa Dân vận - Ngày 14/12/2015)

Thông tin khác

BÁO CÁO ĐỀ DÂN HỘI THẢO KHOA HỌC "VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN"
VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN NHÌN TỪ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM ĐẾN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - Ý NGHĨA ĐỐI VỚI PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC NÂNG CAO DÂN TRÍ GÓP PHẦN PHÁT HUY VAI TRÒ LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG TRIỂN KHAI DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ QUA KHẢO SÁT Ở NAM ĐỊNH
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ NHÂN DÂN THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ TẠI ĐỊA PHƯƠNG
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC TRIỂN KHAI CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VỚI VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
NHẬN DIỆN NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRÁCH NHIỆM CẤP ỦY, CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ TRONG VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VỚI THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CẤP XÃ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
NHỮNG KẾT QUẢ CHỦ YẾU TRONG QUÁ TRÌNH NÂNG CAO VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VỚI THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở NAM ĐỊNH
CƠ SỞ DỮ LIỆU QUỐC GIA VỀ DÂN CƯ VÀ CƠ SỞ DỮ LIỆU CĂN CƯỚC CÔNG DÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CĂN CƯỚC CÔNG DÂN NĂM 2014
KHÁI QUÁT MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI CỦA LUẬT HỘ TỊCH VÀ LUẬT CĂN CƯỚC CÔNG DÂN 2014
QUY ĐỊNH VỀ ĐĂNG KÍ SỰ KIỆN HỘ TỊCH VÀ THẨM QUYỀN CỦA CÔNG CHỨC TƯ PHÁP - HỘ TỊCH CẤP XÃ
HOÀN THIỆN KỸ NĂNG TIN HOC CỦA CÔNG CHỨC TƯ PHÁP - HỘ TỊCH CẤP XÃ HIỆN NAY
QUY ĐỊNH VỀ CƠ SỞ DỮ LIỆU HỘ TỊCH TRONG LUẬT HỘ TỊCH 2014
Lịch giảng dạy
Hoạt động tiêu biểu
BithuTinhuy
hoithaocapbo2022
hoithaokllcs
giaoluubongda
camhoa
Trường Chính trị Trường Chinh
Địa chỉ: Số 39 Đường Vị Xuyên - TP.Nam Định
Điện thoại: 0228.3649222 - Fax: 0228.3642530 - Hotline 24/7: 
Website: www.truongchinhtritruongchinhnd.gov.vn - Email: chinhtrinamdinh@gmail.com