Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề”[1]. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn đề cao vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ và nhấn mạnh đây là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta. Người cho rằng, để đảm bảo cách mạng giành thắng lợi, điều tất yếu là phải nêu cao tinh thần dân chủ, vận dụng và phát triển một cách đúng đắn, sáng tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ vào những điều kiện cụ thể của đất nước để hoạch định ra đường lối, chính sách đúng và phát huy tiềm năng, trí tuệ, sức mạnh của dân tộc. Dân chủ được Người lý giải một cách giản dị, dễ hiểu. Người định nghĩa “dân chủ” là “dân là chủ” và “dân làm chủ”; khẳng định địa vị người chủ trong chế độ mới, chính là nhân dân: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”[2]. Điều này hoàn toàn đối lập với thân phận nô lệ, thần dân hay thảo dân trong chế độ phong kiến, thực dân trước đây.
Với tinh thần đó, Người luôn tiên phong trong việc thực hành dân chủ. Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, ở đỉnh cao của quyền lực, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên có phong cách và phương pháp làm việc rất dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ lãnh đạo có tác phong dân chủ là người thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” theo tinh thần: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách, tức là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”[3] để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người. Người có tác phong dân chủ sẽ không bao giờ “độc tôn chân lý” mà ngược lại, họ thành thực trưng cầu ý kiến phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với tinh thần cầu thị. Gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, phát huy sức mạnh của tập thể là phương châm chỉ đạo suy nghĩ và hành động của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng người cán bộ phải tạo ra được không khí dân chủ thực sự trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho quần chúng, cán bộ cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Làm như vậy thì chắc chắn người cán bộ sẽ được nhân dân yêu mến, cấp dưới nể trọng. Người còn nhấn mạnh, trong thực hành dân chủ, quyền làm chủ của dân phải trở thành một giá trị thực tế chứ không phải một lời nói suông. Dân chỉ biết đến dân chủ, công bằng, bình đẳng khi dân được ăn no, mặc ấm, làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, được học hành tiến bộ, được tự do đi lại, được chăm sóc sức khỏe, được hưởng quyền tự do, hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Đó là dân chủ thực chất để làm chủ thực chất, không hình thức giả dối, cũng không phù phiếm giả tạo.
Bên cạnh đó, Người nhấn mạnh, người có phong cách dân chủ là luôn biết mở rộng dân chủ rộng rãi để phát huy sức mạnh của tập thể. Có dân chủ, bàn bạc tập thể, mới cùng thông suốt, nhất trí, để cùng quyết tâm thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết đã đề ra; tránh được hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”; tránh được sự mất đoàn kết vì sự chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ quan. Làm được như vậy, không chỉ góp phần tạo sự đoàn kết, nhất trí trong tổ chức mà còn giúp cấp dưới và quần chúng chủ động trong việc thi hành công tác; tạo điều kiện để cán bộ, nhân viên trong tập thể có cơ hội phát huy sáng kiến, năng động, sáng tạo. Do đó, tinh thần làm việc được nâng cao, nhằm “đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân”[4].
Trong công tác lãnh đạo Đảng và Nhà nước, phong cách dân chủ Hồ Chí Minh được thể hiện từ việc lớn cho đến việc nhỏ: Chuẩn bị ra một nghị quyết hay dự thảo một văn kiện, viết một bài báo... Người thường đưa ra thảo luận trong tập thể Bộ Chính trị, tham khảo ý kiến những người xung quanh. Người tuân thủ chặt chẽ quy trình ra quyết định: Mọi vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, khoa học - kỹ thuật... Người đều huy động sự tham gia của đội ngũ trí thức, chuyên gia trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, yêu cầu chuẩn bị kỹ, trao đổi rộng, sao cho mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều được cân nhắc kỹ, lựa chọn thận trọng, để sau khi ban hành, ít phải thay đổi, bổ sung. Vì thế, Người luôn luôn tạo ra được không khí làm việc hoạt bát, phấn khởi, hăng hái và đầy sáng tạo. Người phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ, do đó mà người có ý kiến không dám nói, người muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên, cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau, không còn hăng hái, không còn sáng kiến trong khi làm việc. Từ thực hành dân chủ cho nhân dân, đến thực hành dân chủ trong Đảng, trong cơ quan, tổ chức, phong cách dân chủ của Bác Hồ là sự thể hiện nhất quán của tư tưởng đạo đức vì dân, vì nước.
Quá trình Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hành dân chủ được thể hiện rất rõ qua các giai đoạn cách mạng. Những kinh nghiệm quý báu của Người được đúc rút, hoàn thiện qua từng giai đoạn, điều kiện, hoàn cảnh đất nước. Ngay từ khi Đảng ra đời (1930) để lãnh đạo cách mạng, trong cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng và Bác đã nhất quán chủ trương, đường lối trong giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân phải xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân mà mục tiêu cốt lõi của nó là "Độc lập dân tộc, người cày có ruộng" và thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu trong lĩnh vực chính trị.
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức rõ tầm quan trọng của dân chủ đối với vận mệnh của đất nước, trong đó trí thức người tập hợp lực lượng, sát cánh cùng công nông trong các cuộc đấu tranh, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sức mạnh to lớn của khối liên minh công nông trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến vì độc lập dân tộc và dân chủ. Đặc biệt, trong cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939), bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ. Quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng. Có được kết quả đó là do Đảng và Bác đã có những quyết sách quan trọng, phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân trên tinh thần dân chủ, khoa học.
Trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945), dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của nhân dân, Cách mạng tháng Tám đã thành công và mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Từ sau cách mạng tháng Tám, chế độ của ta là chế độ dân chủ; dân chủ trăm, ngàn lần với nhân dân. Khi chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở kế thừa nền dân chủ nhân dân đã có, Bác đã chủ trương phải tiến hành ngay việc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu xuyên suốt là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, thực hành dân chủ là một trong những nội dung thiết thực đối với đời sống xã hội, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của chế độ. Do vậy, Người căn dặn, cần gắn kết giữa lý luận dân chủ và thực hành dân chủ, có như vậy mới đi vào thực chất, mới mang lại hiệu quả cao trong phát triển đất nước. Theo Người, dân chủ phải được mở rộng và thực hiện trong Nhân dân là một trong những chính sách thúc đẩy có hiệu quả nhất đối với quá trình phát triển xã hội, bởi vì, đây là lợi ích cao nhất mà mọi người đều mong muốn thực hiện trong thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng, quyền dân chủ luôn gắn liền với lợi ích của toàn dân, lợi ích là một trong những động lực kích thích người dân tích cực lao động, sáng tạo và xây dựng xã hội. Thực hành dân chủ “toàn dân, toàn diện” là điều kiện quan trọng để phát huy sức mạnh, phát huy sự cống hiến, sáng tạo của toàn thể Nhân dân vào xây dựng Nhà nước. Để Đảng là người lãnh đạo thành công trong xây dựng nền dân chủ XHCN, Đảng phải thu phục được người tài, phải công tâm, khách quan, tôn trọng sự thật, thật sự trong sạch, là người đầy tớ trung thành với Nhân dân. Đảng là người đi đầu, là tấm gương trong việc thực hành dân chủ, phải nghiêm khắc phê bình và tự phê bình một cách nghiêm túc, không hình thức, qua loa, Đảng phải thường xuyên học tập và nâng cao trình độ, rèn luyện bản lĩnh, đạo đức, tác phong của người lãnh đạo… có như vậy mới góp phần xây dựng thành công “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Theo Người, cần thiết phải mở rộng thực hành dân chủ trong Đảng, đó không đơn thuần là việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà mọi hoạt động của Đảng đều phải dựa trên nền tảng dân chủ và hướng tới mục tiêu dân chủ. Dân chủ nhất thiết phải đi đến tập trung và tập trung phải trên nền tảng dân chủ. Giữa dân chủ và tập trung là sự hòa quyện hữu cơ, nếu thiếu một trong hai yếu tố thì Đảng sẽ rơi vào căn bệnh vô tổ chức hoặc độc đoán, chuyên quyền. Thấu hiểu sức mạnh của dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc rằng, “trong Đảng cần phải thực hành dân chủ rộng rãi”. Đây là kinh nghiệm đúc kết sau bao suy tư của Người về vấn đề căn cốt, sống còn của Đảng.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), dưới sự chỉ đạo của Người, Đại hội lần thứ hai của Đảng (1951) đã thông qua Cương lĩnh mới nhằm hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội; xây dựng Đảng cách mạng riêng ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia, nhấn mạnh yêu cầu xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sắc bén: “Một chính quyền cách mạng phải mạnh. Sức mạnh của nó là sức mạnh của nhân dân. Lúc nào nhân dân yêu mến chính quyền của mình, hy sinh chiến đấu cho chính quyền ấy thì chính quyền ấy mới mạnh. Muốn như thế thì trước tiên chính quyền ấy phải thiết thực bênh vực quyền lợi cho nhân dân về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Nhờ đó, nhân dân Việt Nam coi chính quyền là ruột thịt của mình. Chúng ta kháng chiến thắng lợi là nhờ đó”[5]. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”[6]. Việc đề cao thực hành dân chủ giúp mọi người dân hăng hái làm việc, tôn trọng những đóng góp sức lực của Nhân dân, góp phần kích thích tính tích cực, sáng tạo của người dân, bảo đảm quyền tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ trong xây dựng xã hội. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến công hiển hách, gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dân chủ và dựa vào sức mình là chính. Kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo đó của Người đã phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát triển sáng tạo khoa học, nghệ thuật chiến tranh cách mạng với sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân.
Những kinh nghiệm của Người về phát huy dân chủ và sức mạnh của nhân dân tiếp tục được hiện thực hóa trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Trong những cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tạo ra không khí dân chủ, trân trọng và chú ý lắng nghe báo cáo và ý kiến của cán bộ. Mặt khác, Người rất chú ý đến ý kiến của nhân dân, những con người bình thường. Chẳng hạn, khi bàn về cách làm và xuất bản loại sách “Người tốt, việc tốt” (1968) với một số cán bộ để phát huy sức mạnh của nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ , Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được. Không nên: Bác nói gì, các chú cứ ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ, rồi các chú không làm, hay làm một cách qua loa”[7]. Nhờ những chỉ dẫn thực hành dân chủ quý báu trong từng việc nhỏ như vậy, Đảng đã luôn nêu cao tinh thần dân chủ, tự chủ quyết tâm đánh giặc Mỹ giành lại thống nhất hoàn toàn với cùng một lúc hai chiến lược cách mạng ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; đây chính là nét độc đáo chưa có trong lịch sử và là thành công lớn của Đảng ta trong vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tế của đất nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước.
Trong bối cảnh mới hiện nay, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”[8]. Để tiếp tục học tập phương pháp, phong cách lãnh đạo chỉ đạo thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung cốt yếu sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ trong Đảng. Đảng là cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng của Nhân dân, là người vạch ra đường lối, chủ trương chính sách để Nhân dân thực hiện những quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy, trước hết Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ nhận thức của mình, phải luôn “lấy dân làm gốc”, mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của Nhân dân. Thực hiện dân chủ trong Đảng cần gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, từng bước hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực của người đứng đầu, xử lý nghiêm minh những vi phạm về mất tập trung dân chủ, hoặc dân chủ hình thức.
Hai là, nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ trong nhà nước. Trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cần phải xóa bỏ tình trạng lộng quyền, lợi dụng quyền lực trong thực hiện nhiệm vụ. Người đứng đầu tổ chức phải luôn lắng nghe ý kiến phản biện từ xã hội, đặc biệt từ các nhà khoa học, các chuyên gia. Xây dựng hệ thống pháp luật công bằng, bình đẳng nhằm bảo đảm thực thi dân chủ một cách thực chất. Tuyển chọn người cán bộ có tài, có đức, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo. Thực hành dân chủ cơ sở đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, cung cấp kịp thời, chính xác thông tin đến với quần chúng nhân dân. Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân vì dân”.
Ba là, nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Để xây dựng xã hội “dân là chủ, dân làm chủ” theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì cần phải từng bước tuyên truyền nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân. Dân trí càng cao thì người dân thực hiện quyền làm chủ của mình càng khách quan và thực chất. Để nâng cao dân trí cần phải đẩy mạnh giáo dục - đào tạo, học thực chất, thi thực chất, không ngừng phổ biến kiến thức rộng rãi trong Nhân dân. Khi Nhân dân nắm được kiến thức đúng đắn, khoa học thì sẽ có những nhìn nhận khách quan đúng đắn, góp phần xây dựng xã hội phát triển bền vững.
Bốn là, bên cạnh thực hiện quyền làm chủ của mình, thì người dân cũng phải có nghĩa vụ và trách nhiệm làm chủ đối với xã hội. Làm chủ phải thực hiện đúng nghĩa vụ công dân, đạo đức công dân, cần kiệm liêm chính; phải chủ động chăm lo vun vén cho lợi ích chung của xã hội; phải luôn tự mình làm chủ trong phát triển kinh tế - xã hội. Dân làm chủ thì còn có nghĩa vụ đấu tranh chống lại các thể lực thù địch chống phá chia rẽ đoàn kết, mất dân chủ trong xã hội thì mới góp phần phát triển xã hội bền vững.
Như vậy, dân chủ và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xã hội hiện nay của nước ta là nhu cầu tất yếu khách quan, nhằm mang lại những lợi ích thiết thực cho Nhân dân, phát huy được tính năng động sáng tạo của quần chúng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần xây dựng xã hội phát triển bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay. Những kinh nghiệm về thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ góp phần củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn tạo cơ sở nâng cao ý thức cảnh giác, đấu tranh chống lại những chiêu bài dân chủ phản động của các thế lực thù địch, phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết dân tộc trong xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay./.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.284.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, tr.382.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.620
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.75
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, t.12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.229.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 374
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.661
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị Quốc gia-Sự thật, H, 2021, t.I, tr.174
|