1. Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch thông qua nghiên cứu và giảng dạy Chủ nghĩa xã hội khoa học
Một là, về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
Cuộc cách mạng lần thứ tư làm cho năng suất lao động xã hội cao cùng với sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản, đời sống, điều kiện lao động được cải thiện, công nhân không còn nhu cầu đấu tranh; số lượng công nhân ngày càng giảm đi, không phải giai cấp công nhân mà đội ngũ trí thức mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử toàn thế giới. Từ chỗ phủ nhận vai trò sứ mệnh của giai cấp công nhân, họ đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Hai là, chủ nghĩa xã hội mà C.Mác nêu ra cũng chỉ là một thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng mới, không có khả năng thực hiện.
Ba là, sự lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sai lầm, đẻ non. Do đó, Việt Nam nên chuyển hướng phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa mới phù hợp.
Bốn là, Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền của Đảng Cộng sản. Họ phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi thực hiện “tam quyền phân lập”.
Năm là, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đặt dấu chấm hết đối với chủ nghĩa Mác - Lênin sau hơn 150 năm tồn tại; là sự “thất bại” của học thuyết của Mác và Lênin, chứng minh sự phá sản của nền tảng lý luận Mác - Lênin.
2. Đấu tranh phản bác một số quan điểm sai trái, thù địch thông qua nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Trong quá trình trao đổi với học viên, giảng viên cần đưa ra những luận cứ khoa học về mặt lý luận và thực tiễn nhằm phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch nêu trên. Giảng viên cần căn cứ vào từng bài giảng và từng đối tượng học viên để có sự lồng ghép phù hợp giữa nội dung bài giảng với việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Một là, về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
Thứ nhất, lý luận sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân ra đời giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX gắn với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, đặt ra yêu cầu cần phải có một lực lượng lao động hùng hậu, không chỉ để vận hành quá trình sản xuất, mà còn tạo ra nguyên liệu đầu vào, vận chuyển, tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp. Đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo, trong nhiều ngành công nghiệp, lao động bị thay thế bởi máy móc tự động hóa. Nhìn bên ngoài tưởng chừng như giai cấp công nhân đã “teo” đi. Tuy nhiên, những người lao động trong dây chuyền sản xuất tư bản, do sự phát triển của công nghệ bị loại ra, họ buộc phải tìm những công việc mới, mà do quy luật khách quan, tự họ không quyết định được, những công việc ấy có thể nặng nhọc, giá rẻ, bếp bênh hơn so với trước kia - những việc mà vì ít lợi nhuận thấp, nhà tư bản không đầu tư vào để tự động hóa. Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa là những người trực tiếp vận hành máy móc trong các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng… thì ở một số nơi, một số ngành nhất định, về hình thức giai cấp công nhân có giảm đi nhưng thực chất những người lao động đó địa vị xã hội của họ không hề thay đổi. Bản chất, họ vẫn là người lao động, sống bằng việc bán sức lao động của mình, cuộc sống của họ vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào quá trình sản xuất tư bản.
Mặt khác, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang chuyển những ngành nghề lao động nặng nhọc, vất vả, nguy hiểm, thu nhập thấp, gây ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, số lượng công nhân truyền thống trong các nước công nghiệp phát triển có giảm xuống, nhưng ở các nước đang phát triển, giai cấp công nhân tăng lên (do các nước này đang trong quá trình công nghiệp hóa). Do đó, xét trên phạm vi toàn cầu, giai cấp công nhân không hề giảm đi mà số lượng còn tăng lên. Trong tương lai gần, số lượng giai cấp công nhân sẽ tiếp tục tăng lên khi các nước đang phát triển, chậm phát triển bước vào quá trình công nghiệp hóa.
Thứ hai, trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cho đến thời điểm hiện tại, người lao động hàng đầu vẫn là giai cấp công nhân. Từ đó cho thấy, không thể cho rằng cuộc cách mạng này gắn với đội ngũ trí thức, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với tư cách là lực lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Giai cấp công nhân là sản phẩm của lịch sử, trước hết là lịch sử sản xuất, mà sản xuất ra của cải vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại của xã hội và là nhân tố có tính chất khách quan.
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa đặt ra yêu cầu phát triển công nghệ, người vận hành công nghệ ấy không ai khác chính là giai cấp công nhân. Sự phát triển của khoa học công nghệ đặt ra yêu cầu khách quan giai cấp công nhân phải nâng cao năng lực, kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ lao động. Do đó, quan điểm, giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền công nghiệp của chủ nghĩa Mác - Lênin là không thay đổi.
Thứ ba, thực chất cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nếu xem xét sâu xa hơn, những thành tựu đó đang phục vụ cho giai cấp tư sản, thuộc sở hữu của giai cấp tư sản. Khoa học công nghệ là sản phẩm trí tuệ do người lao động trí óc tạo ra, được giai cấp công nhân vận hành trong quá trình sản xuất, nhưng sản phẩm của nó lại thuộc về nhà tư bản, đúng ra nó phải thuộc về người lao động, phục vụ lợi ích cho chính người lao động, nhưng trong quá trình sản xuất tư bản, bất cứ nơi nào khoa học tham gia vào sản xuất thì nó lại là công cụ để bóc lột chính người lao động. Những thành tựu mới của khoa học công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thuộc về các quốc gia, tập đoàn tư bản hùng mạnh nhất, họ dùng những thành tựu đó để khống chế các quốc gia, tập đoàn, dân tộc, giai cấp yếu hơn.
Về phương diện chính trị - xã hội, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư không làm thay đổi địa vị của giai cấp công nhân trong phương thức sản xuất tư bản nói riêng, xã hội nói chung. Giai cấp công nhân vẫn là những người mà cuộc sống của họ phụ thuộc vào việc bán sức lao động trên thị trường, họ không có tiếng nói quyết định trong sản xuất, phân phối sản phẩm. Vì thế, công nhân vẫn là người đi đầu trong các cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội.
Mặt khác, khi nói về tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp công nhân, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới”. Rất nhiều người dựa vào câu nói này để khẳng định, người công nhân làm cách mạng vì họ “không có gì để mất” ngoài “những xiềng xích trói buộc”. Họ là “giai cấp vô sản”, là giai cấp “trần như nhộng”. Do đó, họ có tính triệt để cách mạng. Còn giai cấp công nhân hiện nay đời sống vật chất và tinh thần đã được nâng cao hơn rất nhiều, do đó họ không còn muốn làm cách mạng nữa. Cần khẳng định rằng, giai cấp công nhân đến với chủ nghĩa Mác là đến với cái đúng, đó là lý tưởng giải phóng triệt để con người, không phải chỉ vì họ nghèo khổ mà xuất phát từ chính điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của họ. Những điều kiện đó ở thế kỷ XIX đến nay vẫn tồn tại dù đã có những bước phát triển mới.
Thứ tư, những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại, nếu nhìn nhận một cách trực quan, nó đã khoác trên mình nó một bộ áo mới và bộ áo đó đã phần nào che đậy được một số khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản. Tuy vậy, mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa tư bản không thể thay đổi. Có điều chỉnh, cải tiến như thế nào thì đó vẫn là một nghịch lý nan giải của quan hệ tư bản. Đó là: xu hướng xã hội hóa đang phát triển nhưng sở hữu tư nhân của giới chủ vẫn đang chi phối; công nhân có tham gia quản lý như thế nào thì cho đến nay ý chí tối thượng cuối cùng vẫn ở các ông chủ tư bản giàu có; nhà nước có phân phối lại thì vẫn ưu tiên trước hết vì lợi ích của giới chủ, thân phận của người lao động vẫn là thân phận làm thuê, phụ thuộc vào giới chủ; có nâng cao được mức sống của đa số người nhưng tỷ lệ bóc lột và bất bình đẳng vẫn tăng chứ không giảm.
Thực tế cho thấy, đời sống của giai cấp công nhân hiện nay nhất là giai cấp công nhân ở một số nước tư bản phát triển như Mỹ và châu Âu đang ngày càng được nâng cao. Do đó, nhiều người cho rằng, giai cấp công nhân không còn bị bóc lột giá trị thặng dư, hoặc nếu vẫn bị bóc lột thì tỷ suất giá trị thặng dư giảm so với thế kỷ XIX. Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn không chính xác. Hiện nay, giai cấp công nhân thậm chí còn bị bóc lột giá trị thặng dư nặng nề và tinh vi hơn trước rất nhiều. Điều đó là do giai cấp tư sản đã thay đổi phương pháp bóc lột giá trị thặng dư. Nhờ áp dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
Về mặt hình thức, họ không còn là “vô sản” nữa và có thể được “trung lưu hóa” về mức sống, nhưng về thực chất, ở các nước tư bản, do không chiếm được tỷ lệ sở hữu cao nên quá trình sản xuất và phân chia lợi nhuận vẫn bị phụ thuộc vào những cổ đông lớn. Quyền định đoạt quá trình sản xuất, quản lý cũng như quyền quyết định cơ chế phân phối lợi nhuận vẫn thuộc về giai cấp tư sản. Công nhân hiện nay dù có cổ phiếu, cũng chẳng làm thay đổi được địa vị làm thuê và bị bóc lột trong xã hội tư bản. Họ không trở thành “nhà tư bản” theo cách tuyên truyền của các lý luận gia tư sản, mà chỉ là “nhà tư bản” đối với chính mình. Chế độ cổ phiếu thật sự là phương pháp hữu hiệu cột chặt người lao động và bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ. Việc mua bán cổ phiếu ở các nước tư bản đã tạo nên cái gọi là hiệu ứng của cải, làm cho “tư bản giả” ngày càng tăng lên so với thực tế. Điều đó càng nói lên tính chất ăn bám của chủ nghĩa tư bản độc quyền, chứ chẳng phải chủ nghĩa tư bản đã là chủ nghĩa tư bản nhân dân như người ta cố tình tô vẽ.
Thứ năm, về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng không chỉ là “đội tiên phong của giai cấp công nhân”, mà hơn thế nữa, Đảng “đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”[1]. Do đó, những luận điệu muốn phủ nhận vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là chủ quan, duy ý chí, hoàn toàn không có căn cứ cả về lý luận và thực tiễn.
Hai là, quan điểm cho rằng, chủ nghĩa xã hội mà C.Mác nêu ra cũng chỉ là một thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng mới, không có khả năng thực hiện. Để làm rõ luận điểm sai lầm trên, cần dựa trên cả cơ sở lý luận và thực tiễn.
Về lý luận, chúng ta thấy rõ sự khác biệt căn bản giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không phát hiện được quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, không khám phá ra bản chất của chủ nghĩa tư bản cũng như không tìm thấy được lực lượng có thể tiến hành cách mạng. Sự ra đời của ba phát kiến vĩ đại của C.Mác: chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã giúp khắc phục những hạn chế trên và đưa chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học. Sự khác biệt toàn diện trên cho thấy, không thể đồng nhất chủ nghĩa xã hội khoa học với chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Về thực tiễn, trước hết, phải thấy rằng, chủ nghĩa xã hội đã là một hiện thực trong lịch sử và hiện vẫn đang là một hiện thực không thể phủ nhận. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã biến ước mơ ngàn đời của nhân loại thành sự thật. Và trong suốt hơn 70 năm tồn tại, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn trên nhiều lĩnh vực. Cho đến nay, mặc dù hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực thế giới đã tan rã nhưng không ai có thể phủ nhận sự tồn tại khách quan và tính ưu việt của nó. Những thành công bước đầu nhưng hết sức quan trọng trong công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam và tinh thần chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở các nước Mỹ Latinh... đang chứng minh cho lý tưởng xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn có sức sống trường kỳ cùng nhân loại.
Đặc biệt, cần nhận thức rõ, đây là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực. Đi lên chủ nghĩa xã hội là một con đường dài, đầy khó khăn, nhiều bước quanh co, khúc khuỷu, có thể gặp những thất bại tạm thời, không thể từ một bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội mà đã có thể kết luận rằng, chủ nghĩa xã hội đã thất bại hoàn toàn, không thể thành hiện thực hay là một “ảo tưởng” được. Thực tế cho thấy, trong quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới, nước nào biết vận dụng sáng tạo những nguyên tắc, nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, của chủ nghĩa xã hội khoa học thì hạn chế được những khuyết tật, giữ vững được chủ nghĩa xã hội, đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng xã hội mới.
Ba là, quan điểm cho rằng, sự lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sai lầm, đẻ non, không đi theo quy luật; nếu không đi theo con đường cách mạng vô sản thì vẫn giành được độc lập dân tộc mà không phải đổ máu, hy sinh hàng triệu con người trong chiến tranh; đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, kinh tế sẽ phát triển như một số nước trong khu vực đã trở thành những “con rồng”, “con hổ” của châu Á; Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từng là thành trì của chủ nghĩa xã hội cuối cùng cũng từ bỏ ngọn cờ để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Do đó, hiện nay Việt Nam nên chuyển hướng phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa mới phù hợp, v.v..
Hiện thực lịch sử ở Việt Nam đầu thế kỷ XX cho thấy, trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân chịu cảnh áp bức, bóc lột của cả chủ nghĩa thực dân và địa chủ phong kiến, đã có rất nhiều phong trào yêu nước như: phong trào Cần Vương, phong trào khởi nghĩa Yên Thế, phong trào Dân chủ tư sản,v.v.. song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Ðó là sự bế tắc và thất bại về đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc.
Trong bối cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước theo tiếng gọi “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản, với mong muốn sang các nước tư bản phát triển học hỏi những yếu tố tiến bộ để về giúp đồng bào thực hiện công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Từ đó, Người đi đến kết luận: cách mạng giải phóng dân tộc Mỹ, cách mạng tư sản Pháp đều là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng chưa đến nơi, vì cách mạng thành công chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số giai cấp, còn đông đảo quần chúng lao động vẫn chịu cảnh áp bức, bóc lột. Cho nên, nếu lựa chọn con đường cách mạng tư sản này cùng lắm chỉ giải phóng được dân tộc, nhưng nhân dân vẫn bị áp bức, vẫn phải chịu kiếp ngựa trâu, thì độc lập dân tộc sẽ chẳng có nghĩa lý gì.
Lựa chọn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường chủ nghĩa cộng sản bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tất yếu khách quan, hợp quy luật, phù hợp với thực tiễn, với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Trải qua hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng và sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế được nâng lên. Đây chính là minh chứng cho sự lựa chọn con đường đi đúng đắn của dân tộc Việt Nam.
Bốn là, quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch rêu rao từ nhiều năm nay là: Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền của Đảng Cộng sản. Từ đó, họ phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi thực hiện “tam quyền phân lập”, phủ nhận đường lối đối ngoại
Sự thật là, khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng đã chủ trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Xác định nhiệm vụ đổi mới, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Từ thành tựu đổi mới kinh tế mà từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Nhận thức rõ rằng, chính trị là lĩnh vực rất quan trọng đối với một quốc gia, một chế độ, lại là vấn đề rất nhạy cảm; vì vậy, đổi mới chính trị, phải tiến hành từng bước vững chắc, thận trọng, không thể hấp tấp, vội vàng; nhất là trong thực hiện các phương hướng và giải quyết các mối quan hệ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội để phản bác các thế lực thù địch, phản động phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa trong hội nhập quốc tế của Đảng ta với các chiêu bài, như “bài”, “thoát” nước này, liên minh với nước kia, cổ xúy chủ nghĩa ly khai…
Năm là, cần thấy rõ sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu xuất phát từ những sai lầm chủ quan, khách quan. Nguyên nhân sâu xa là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã có những khiếm khuyết nghiêm trọng về mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng chậm được phát hiện và khắc phục, làm cho kinh tế - xã hội trì trệ, dẫn tới khủng hoảng; nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là, trong quá trình cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm nghiêm trọng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Những sai lầm trên là nguyên nhân của sự khủng hoảng, sụp đổ của Liên Xô. Đó tuyệt nhiên không phải là những sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác - Lênin sinh ra.
Hơn nữa, cần khẳng định, dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu chỉ tồn tại hơn 70 năm, nhưng nó đã làm thay đổi căn bản thế giới ở thế kỷ XX. Nó giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức bóc lột, biến nước Nga từ lạc hậu thành cường quốc. Nó đóng vai trò quyết định, giúp loài người thoát khỏi thảm họa phát xít, thúc đẩy phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển như vũ bão,…v v. Thành tựu hiện nay của các nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội như Trung Quốc, Việt Nam… đã là thực tiễn sống động minh chứng cho sức sống trường tồn và tính đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin.
3. Những điểm mới cần bổ sung, phát triển
Thông qua giảng dạy học phần này, giảng viên cần làm cho học viên hiểu được chủ nghĩa Mác - Lênin dù có nhiều giá trị bền vững cho đến ngày nay nhưng cũng cần phải “tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”[2]. Điều đó thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, so với thời kỳ C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin thì hiện nay giai cấp công nhân đã có sự biến đổi rất lớn. Tình hình đó đặt ra cho công tác tư tưởng lý luận của các đảng cộng sản, đảng công nhân phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết về lý luận những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Cần đặc biệt lưu ý về thực trạng về số lượng, chất lượng, cơ cấu, vai trò khách quan của giai cấp công nhân ở tất cả các nước, đặc biệt là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Bởi vì, chính từ phần lớn các nước này, nhiều thông tin và quan điểm rất mới, phức tạp, đan xen cả những giá trị lẫn những sai lệch đã truyền thông toàn cầu về giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay.
Thứ hai, trên thực tiễn các nước phát triển cả hai nhóm: “công nhân - trí thức” và “trí thức - công nhân” và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu xã hội. Đây cũng là tính quy luật của sự phát triển nhân lực ở tất cả các nước và chính là biểu hiện của tính quy luật “xích lại gần nhau” giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội từ yêu cầu phát triển khách quan ngày càng cao, đa dạng và phong phú hơn trong quá trình phát triển tất yếu tiến tới xã hội không còn giai cấp - xã hội cộng sản văn minh, như học thuyết Mác - Lênin đã dự báo khoa học về tương lai xa của nhân loại.
Thứ ba, chủ nghĩa tư bản còn khả năng phát triển kinh tế - xã hội, nhất là chuyển sản xuất sang chiều sâu như hiện nay. Sở hữu tư nhân, lợi ích tư nhân vẫn còn là động lực lâu dài của phát triển kinh tế nói chung nhưng sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, thông qua những điều chỉnh như đã nêu, không vượt được giới hạn lợi ích tư sản. Kinh tế - xã hội phát triển được một bước thì mâu thuẫn tư bản và người lao động lại bộc lộ ra có quy mô rộng lớn hơn và đi vào chiều sâu hơn, cứ lặp đi lặp lại chưa có cách giải quyết triệt để.
Thứ tư, khi bàn về chủ nghĩa xã hội, cần chú ý ba khía cạnh, ba nội hàm, ba tư cách của chủ nghĩa xã hội: một học thuyết, một phong trào và một chế độ. Bởi vì, nếu ai đó chỉ nhìn chủ nghĩa xã hội như một phong trào thì dễ bị dao động vì sự “đi lên hay đi xuống” của phong trào đó. Nếu chỉ nhìn chủ nghĩa xã hội như một học thuyết thì dễ thấy nó bị “xơ cứng, giáo điều, lạc hậu”. Còn nếu nhìn nó như một chế độ thì có thể thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu làm cho người ta dễ hoài nghi.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, nó không giống với bất kỳ một mô hình nào trên thế giới, mang tính chất đặc trưng riêng của Việt Nam. Đây là thách thức lớn nhất của nước ta, bởi vì nếu phải xây dựng một kiểu xã hội hoàn toàn mới chưa có trên thế giới sẽ vô cùng khó khăn, thách thức.
Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học góp phần lớn đến việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học và nhân sinh quan cộng sản cho học viên hệ trung cấp lý luận chính trị. Từ những tri thức mà học viên tiếp nhận sẽ dần hình thành những giá trị, niềm tin, lý tưởng, lập trường, ý thức hệ cho học viên, giúp họ vận dụng những tri thức lý luận đó vào giải quyết các vấn đề chính trị xã hội đặt ra trong thực tiễn. Thông qua mỗi bài giảng, nhiệm vụ của người giảng viên cần lồng ghép những quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa xã hội khoa học để học viên nhận diện, đồng thời phải đưa ra những luận cứ chặt chẽ để phản bác lại các luận điệu trên. Qua đó, học viên sẽ thấy được tính đúng đắn về học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin, có niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, giúp học viên đề kháng được trước những nguy cơ “diễn biễn hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” hiện nay./.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thư XI, Nxb. CTQG; HN,2011; tr.88.
[2] GS-TS Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
|