Đới
Văn Tặng - Trưởng khoa Xây dựng Đảng Lịch
sử thế giới đương đại cho thấy, bất kỳ quốc gia nào cũng có đảng chính trị cầm
quyền. Mặc dù, nguồn gốc hình thành hay tên gọi khác nhau, song đảng này ảnh hưởng
sâu sắc đến toàn bộ đời sống xã hội, tới sự phát triển của cả một dân tộc. Đối
với Việt Nam, 70 năm qua
chúng ta chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sở dĩ
trong mấy chục năm qua, Đảng ta đứng vững trên cương vị cầm quyền lãnh đạo nhà
nước, thông qua nhà nước lãnh đạo toàn xã hội được nhân dân tin cậy và ủng hộ,
là do Đảng luôn quán triệt, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào trong thực tiễn đất nước, để xây dựng và củng cố đội ngũ của
mình, từng bước nâng mình lên đáp ứng yêu cầu của cách mạng, hoàn thành những
trọng trách to lớn trước vận mệnh của dân tộc và của lịch sử giao phó. Nhìn lại
tám mươi lăm năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tỏ rõ vai trò của mình trước
yêu cầu nhiệm vụ cụ thể ở từng giai đoạn cách mạng. Đầu
năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng được yêu cầu lịch sử dân tộc
về sự cần thiết phải có Đảng “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản mọi nơi” và Đảng đã nhanh
chóng lãnh đạo phong trào cách mạng của nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ dân
tộc và dân chủ giành thắng lợi, mở đầu là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đập tan
gông, xiềng của chế độ thực dân, phong kiến, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa - chính quyền dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á, mở ra kỷ
nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Từ đây, Đảng trở thành Người cầm quyền lãnh đạo các cuộc kháng chiến giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc đổi mới giành thắng lợi có ý nghĩa lịch sử.
Đảng thực sự là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình đó Đảng ta cũng có những lúc phạm sai lầm, khuyết điểm.
Nhưng Đảng cũng đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, công khai tự phê bình nhận
khuyết điểm trước nhân dân, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
đã nêu rõ, “…cũng như một con người, trong quá trình lãnh đạo và tổ chức cách mạng
Đảng không thể không phạm sai lầm. Sự thừa nhận công khai khuyết điểm không làm
Đảng yếu đi, mà là dấu hiệu của một Đảng mạnh, có đầy đủ tính cách mạng và tiên
phong, biết tin ở mình và tin ở nhân dân…”. Những vấn đề nêu trên cho thấy, vấn đề Đảng
cầm quyền có ý nghĩa hết sức to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Tại Đại hội
XI, trong phương hướng, giải pháp xây dựng Đảng những năm tới, Đảng ta tiếp tục
xác định: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số
vấn đề về đảng cầm quyền” 1. Đảng Cộng sản Việt nam cầm quyền - những
vấn đề lý luận V.I.Lênin
là lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, Người đã kế thừa và phát triển xuất
sắc tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen tạo thành hệ thống lý luận Mác - Lênin - hệ
tư tưởng cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân toàn thế giới. Sau cách mạng
Tháng Mười Nga thành công, thực tiễn và cuộc sống chính trị thời kỳ có chính
quyền Xô Viết đặt ra cho V.I.Lênin và Đảng Cộng sản Nga nhiều vấn đề cần giải
quyết cả về lý luận và thực tiễn, trong đó có nội dung lãnh đạo và phương pháp cách
mạng của đảng cầm quyền. Những điều mà trong lịch sử phong trào cộng sản và
công nhân cho đến lúc đó chưa có tiền lệ. Trong khuôn khổ phạm vi của bài viết
này, người viết xin đề cập đến một số ít chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Một là, vị trí, vai trò của
Đảng khi nắm giữ chính quyền.
V.I.Lênin cho rằng, ở vị trí đảng cầm quyền, trọng trách của Đảng là lãnh đạo
Nhà nước và toàn xã hội trên mọi phương diện, trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Đảng lãnh đạo Nhà nước mà không lấn sân, không làm thay Nhà nước đó là một nhân
tố bảo đảm thắng lợi của thời kỳ mới. Song, trong thực tế, chính V.I.Lênin đã
phát hiện “những quan hệ không đúng” giữa Đảng và các cơ quan Xô Viết, vì “nước
ta (Nga) chỉ có một Đảng duy nhất đang lãnh đạo”. Người đề nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng “cần phân định một cách
rõ ràng hơn nữa những nhiệm vụ của Đảng (và của Ban Chấp hành Trung ương của
nó) với nhiệm vụ của chính quyền Xô Viết; tăng thêm trách nhiệm và tính chủ động
cho các cán bộ Xô Viết và các cơ quan Xô Viết, còn về đảng thì dành quyền lãnh
đạo chung công tác của tất cả các cơ quan nhà nước gộp chung lại, mà không can
thiệp một cách quá thường xuyên, không chính quy và thường là nhỏ nhặt, như hiện
nay”.
Hai là, lãnh đạo xây dựng
thể chế Nhà nước. V.I.Lênin
chỉ ra rằng, trách nhiệm và quyền hạn của Đảng trong việc xây dựng bộ máy nhà
nước “với tư cách là một đảng chiếm đa số tại Đại hội II toàn Nga các xô viết,
chúng ta có quyền và có nhiệm vụ trước nhân dân thành lập chính phủ”,
và V.I.Lênin lưu ý rằng, không phải Đảng trực tiếp đứng ra xây dựng bộ máy đó.
Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước bằng việc đề ra phương hướng,
nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước. V.I. Lênin viết: “…chúng ta sẽ đưa ra cương
lĩnh của chính quyền Xô Viết. Việc nói rõ đặc điểm của kiểu nhà nước mới phải
chiếm một địa vị quan trọng trong cương lĩnh của chúng ta”.
Vấn đề phân định nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với nhiệm vụ quản lý của Nhà nước
đã được V.I.Lênin đề cập một cách cụ thể hơn: chừng nào mà Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và toàn Đảng còn tiếp tục làm công tác quản lý hành chính, nghĩa là
quản lý nhà nước, thì Đảng không thể gọi là người lãnh đạo được. Năm 1922, khi
nhận định về quan hệ giữa Đảng và Nhà nước lúc đó, V.I.Lênin nhấn mạnh: giữa Đảng
và các cơ quan Xô Viết, hiện có những quan hệ không đúng, điều đó tất cả chúng
ta đều thừa nhận. Ông đã lấy một ví dụ để chứng minh rằng, ngay đối với một
công việc nhỏ cụ thể, người ta cũng đưa đến Bộ Chính trị như thế nào rồi. Phải
chấm dứt cả tình trạng là tất cả mọi vấn đề vụn vặt cũng đều đưa ra Ban Chấp
hành Trung ương, mà phải nâng cao uy quyền của Hội đồng dân ủy…Từ đó, V.I.Lênin
khẳng định: nếu Đảng cứ lãnh đạo bằng cách đó, thì chúng ta đi tới chỗ diệt
vong…, cần phân định rõ chức năng, quyền hạn của bộ máy Đảng và bộ máy của Xô Viết. Ba là, đối với công tác cán
bộ. Trong lĩnh vực này
là rất hệ trọng thuộc về Đảng, nhất là công tác cán bộ nhà nước, đặc biệt là những
chức vụ chủ chốt, V.I.Lênin lại nhấn mạnh đến quyền quyết định của Đảng. Người
viết: “Chừng nào một đảng cầm quyền còn quản lý, chừng nào đảng ấy còn phải giải
quyết tất cả mọi vấn đề về những sự bổ nhiệm khác nhau, thì anh không thể để có
tình trạng là việc bổ nhiệm các chức vụ nhà nước quan trọng nhất lại do một đảng
không lãnh đạo tiến hành”. Bốn là, hoàn thiện phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. V.I.Lênin đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện phương thức
lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với Nhà nước trên tất cả các phương diện khác nhau
trong hoạt động của Nhà nước, trước hết là vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa
vai trò, chức năng lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và chức năng quản lý của
Nhà nước sao cho Đảng thực sự là cơ quan lãnh đạo ở tầm chiến lược và Nhà nước
là cơ quan quyền lực của dân, có thực quyền, đủ sức mạnh để điều hành mọi hoạt
động quản lý. Vấn đề này đã được V.I.Lênin nêu ra trong tác phẩm Những nhiệm vụ của chúng ta và Xô Viết đại
biểu công nhân (11-1905), V.I.Lênin viết: “Xô Viết đại biểu công nhân hay
là Đảng? Theo tôi, không thể đặt vấn đề như vậy, và giải quyết vấn đề đó nhất
thiết chỉ có thể là: vừa cần Xô Viết đại biểu công nhân, vừa cần có Đảng. Vấn đề
- và là vấn đề hết sức quan trọng - chỉ là ở chỗ làm thế nào phân rõ và kết hợp
những nhiệm vụ của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga”.
Từ đó, V.I.Lênin nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước theo phương thức
sau: một là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng
cương lĩnh, chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đồng thời cũng
không phải là lãnh đạo bằng các mệnh lệnh từ trên ban xuống theo kiểu “tôi có
quyền, tôi ra lệnh, thì anh phải phục tùng” mà rằng “ trong nước cộng hòa của
chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một cơ
quan nhà nước giải quyết mà lại không có chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương”.
Cơ sở của quan điểm này được ông chỉ ra rằng, nguyên tắc hoạt động của Nhà nước
phải dựa vào đường lối cương lĩnh của Đảng, đường lối đó đã được rút ra từ toàn
bộ cuộc đấu tranh của Đảng, nó thể hiện bản chất cách mạng và khoa học, và được
Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn. Hai
là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
trong bộ máy nhà nước. Theo V.I.Lênin các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đó là đường
lối được xây dựng trên nền tảng trí tuệ của tất cả mọi đảng viên và tất cả các
đảng viên của Đảng phải tuân theo. Bởi
vậy, những cán bộ, đảng viên của Đảng trong bộ máy nhà nước - những người đã được
“hàng triệu công nhân, binh sĩ và nông dân, trao chính quyền ấy cho đại biểu của
Đảng ta”
- họ phải chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, phải tổ chức thực hiện các
chủ trương đường lối đó trong hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà nước, nhiệm vụ của
họ là lãnh đạo nhà nước, các đồng chí hãy làm thế nào cho nhà nước nằm trong
tay của các đồng chí, phải hoạt động như các đồng chí mong muốn. Và, nhiệm vụ của
những cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước là: họ có hai tư cách tương ứng với
hai nhiệm vụ, với tư cách là cán bộ, đảng
viên đại diện cho Đảng, trong bộ máy nhà nước họ phải thực hiện nhiệm vụ
cho Đảng; còn với tư cách là đại biểu của
dân, được nhân dân ủy quyền tham gia quản lý nhà nước, họ có nhiệm vụ của người
đại biểu cho quần chúng nhân dân để thực thi quyền lực nhà nước. Vì vậy, người
cán bộ, đảng viên ấy phải nhớ rằng anh ta không chỉ bằng tuyên truyền bằng lời
nói mà phải giúp đỡ các tầng lớp nhân dân và phải được nhân dân kiểm soát. Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công
tác kiểm tra, V.I. Lênin cho rằng, ngoài việc xây dựng và sử dụng tổ chức bộ
máy, giữ vững nguyên tắc tổ chức, đào tạo và giáo dục cán bộ, đảng viên, Đảng cầm
quyền còn phải nhận thức rõ và thi hành những vấn đề mấu chốt, vấn đề trung tâm
đó là công tác kiểm tra, kiểm soát tổ chức, con người, công việc, buông lỏng kiểm
tra cũng có nghĩa là buông lỏng lãnh đạo và quản lý. Mọi sự buông lỏng này đều
dẫn đến sự suy yếu tổ chức bộ máy, sự thoái hóa, hư hỏng cán bộ. Bởi vậy, V.I.Lênin
đã nhiều lần nhấn mạnh, trung tâm của công tác tổ chức là việc chọn người, giao
việc và kiểm tra - mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện
nay là ở đấy và chỉ có ở đấy. Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra mà Đảng
phát hiện, sáng tạo ra cái mới, tìm ra phương thức lãnh đạo phù hợp với thực tiễn
hơn. Bốn là, Đảng lãnh đạo Nhà nước
thông qua công tác vận động quần chúng. Theo V.I.Lênin, đây là một hình thức rất
quan trọng, không thể thiếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Bởi vì, số phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào lòng tin của nhân
dân và khả năng tập hợp, vận động, giáo dục, thuyết phục nhân dân tiến hành các
hành động cách mạng “Chỉ có người nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn
sáng tạo của nhân dân, mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền”.
Nghĩa là, nếu không lôi cuốn nhân dân tham gia quản lý nhà nước, thì Đảng không
những không lãnh đạo được Nhà nước, và chính bản thân bộ máy Đảng và Nhà nước
cũng tiêu tan. Năm là, nhiệm vụ lãnh đạo của
Đảng cầm quyền. Theo
V.I.Lênin, sau khi đã giành được chính quyền thì cái mấu chốt không phải là
chính quyền mà cái mấu chốt chính là biết lãnh đạo và nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng
Cộng sản thay đổi về cơ bản đó là, xây dựng nhà nước về kinh tế. Khi đó, chủ
nghĩa cộng sản không còn là một cương lĩnh, không còn là một học thuyết, mà đã
trở thành nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế hàng ngày. Chính trị của chúng
ta lúc này là chính trị ngay trong kinh tế. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng,
vai trò tổ chức - quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế được xem là trọng
tâm của thời kỳ Đảng cầm quyền. V.I.Lênin chỉ rõ khi tình hình thay đổi và
chúng ta đã phải giải quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác, không nên nhìn lại
đằng sau và sử dụng phương pháp của ngày hôm qua, và rằng “những thiếu sót của
con người dường như là sự tiếp tục những ưu điểm của con người”, và “nếu ưu điểm
cứ tồn tại mãi quá mức cần thiết và lại không thể hiện vào lúc cần thiết, thì
lúc đó chúng trở thành khuyết điểm”.
Đối với phát triển kinh tế và văn hóa của cách mạng, những người cộng sản phải
chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội như công nghiệp nặng và
điện khí hóa. Ở
nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh - người học trò xuất sắc của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin có tầm nhìn xa và vận dụng, phát triển sáng tạo những tư tưởng
của Mác - Lênin về Đảng Cộng sản cầm quyền. Trong hệ thống lý luận của Người, Hồ
Chí Minh chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về đảng cầm quyền, hay Đảng Cộng
sản Việt Nam
cầm quyền. Nhưng qua những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể
hiểu quan niệm của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền ở một số nội dung sau:
thông qua việc nắm quyền, Đảng tiếp tục thực hiện sứ mệnh lãnh đạo của mình -
lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị - để đạt được mục tiêu cách mạng
mà Đảng đã ghi trên lá cờ của Đảng từ khi ra đời. Ở đây, cần nhận thức rõ đảng
cầm quyền là tiếp tục vai trò lãnh đạo đất nước để đạt được mục
tiêu, lý tưởng cách mạng. Trong điều kiện mới, khi đã có chính quyền trong
tay và khi trở thành đảng cầm quyền, trước
hết mọi đúng, sai về đường lối của Đảng; tốt, kém về phẩm chất đạo đức,
chính trị và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên không chỉ còn bó hẹp trong
nội bộ Đảng nữa, mà trở thành hiện tượng xã hội, tác động mạnh tới xã hội, gắn
chặt với vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Hai là, Đảng cầm quyền sẽ
tạo ra nhiều thuận lợi cho Đảng thực thi vai trò lãnh đạo của mình, nhưng đồng
thời cũng dễ làm nảy sinh những thói hư tật xấu ngoài ý muốn. Khi trong điều kiện
Đảng nắm chính quyền trong tay, hàng trăm “tật bệnh” nhanh chóng xuất hiện, đó
là bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, óc hẹp hòi, thiếu kỷ luật, óc địa phương,
kéo bè kéo cánh v.v.. Như vậy, đảng cầm quyền, bên cạnh những thuận lợi, Đảng sẽ
phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, đó chính là những nguy cơ của đảng
cầm quyền. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được điều này và chỉ rõ: Một
là, Đảng cầm quyền là bước nhảy vọt về sự lãnh đạo trong cải biến cách mạng
của Đảng, trước khi cầm quyền thì nhiệm vụ to lớn nhất của Đảng là lãnh đạo
nhân dân đứng lên làm cách mạng xóa bỏ chính
quyền cũ của bọn thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Sau
khi nắm quyền thì nhiệm vụ của Đảng là lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh
đã viết: “Thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu
còn khó hơn nhiều”, Người coi cuộc cách mạng chiến đấu chống lại những gì đã cũ
kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi “là một cuộc chiến đấu khổng lồ”,
để thực hiện được vai trò, trọng trách to lớn đó, trước hết Đảng phải nhận thức
rõ đảng cầm quyền nhưng dân là chủ; đảng cầm quyền để dân làm chủ; đảng cầm quyền
lấy dân làm gốc. Đảng cầm quyền để lãnh đạo toàn dân đạt được mục tiêu, lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là, Đảng phải chuyển đổi nội dung và phương thức lãnh đạo
như: phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; lãnh đạo hệ thống chính trị; vấn đề
cán bộ, đến công tác kiểm tra, giám sát, công tác tư tưởng và Đảng cầm quyền phải
hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên không
được “vác mặt làm quan cách mạng”, “đè đầu cưỡi cổ dân”, phớt lờ kỷ luật của Đảng
và pháp luật của Nhà nước. Ba là, quyền lực của Đảng là quyền lực chính
trị do nhân dân ủy thác, đó là quyền lãnh đạo toàn xã hội. Do vậy, đối với công
tác cán bộ của Đảng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Điều quan trọng nhất là việc
Đảng trao quyền cho cán bộ, đảng viên. Quyền lực ấy nếu được trao vào người có
đức, có tài thì sẽ phát huy được sức mạnh to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất
nước. Ngược lại, quyền lực ấy nếu trao vào người thiếu đức, thiếu tâm, thiếu tầm
và kém năng lực thì quyền lực sẽ bị thao túng, phục vụ cho lợi ích cá nhân, dẫn
đến trong nội bộ Đảng bị tha hóa. Bốn là, trong điều kiện đảng cầm quyền,
phương thức lãnh đạo của Đảng bằng chủ trương, đường lối, thông qua đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể nhân dân. Muốn vậy,
điều quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước phải là công
bộc thật sự của dân. Bởi vì, xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân
chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại. Năm là, Đảng
cầm quyền phải chống thói “kiêu ngạo cộng sản” như cách nói của V.I.Lênin.
Trong điều kiện một đảng cầm quyền, duy nhất lãnh đạo cách mạng, bệnh kiêu ngạo
dễ nảy sinh. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc tới bệnh kiêu ngạo. Đó là thói “tự
cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt và ưa người ta tâng bốc mình, không thèm học
hỏi quần chúng. Bệnh này dễ dẫn đến mất dân chủ, sai về đường lối, suy thoái về
đạo đức. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền -
những vấn đề thực tiễn Một là, Đảng lãnh đạo nhiệm
vụ phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội. Sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng trở thành
người cầm quyền lãnh đạo Nhà nước phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn và xác định nhiệm vụ trọng tâm của Đảng ta thời kỳ đầu là tập
trung lãnh đạo “diệt giặc đói”, “diệt giặc dốt”, thực hiện “vừa kháng chiến vừa
kiến quốc”. Tiếp đó là nhận thức đầu tiên về công nghiệp hóa trong những năm 60
của thế kỷ XX đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành nên hệ thống quan
điểm về công nghiệp hóa gắn với mục tiêu, mô hình, nội dung, phương thức và nguồn
lực vừa tuân theo sự phát triển chung của thế giới, vừa phù hợp với đặc điểm của
Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng ta đã vượt qua những
sai lầm, hạn chế của nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu bao cấp,
xác lập về mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập. Trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, các quy luật của thị trường được tôn trọng, vận dụng
đầy đủ, Nhà nước pháp quyền XHCN là chủ thể quản lý và Đảng Cộng sản lãnh đạo bảo
đảm thực hiện thành công các mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Từ những luận điểm
đầu tiên về xây dựng nền văn hóa cách mạng, thông qua Đề cương văn hóa Việt Nam
năm 1943, qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã xác định văn hóa là nền
tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự phát triển, phát triển văn hóa
vì sự hoàn thiện nhân cách của con người, xây dựng con người để thúc đẩy văn
hóa phát triển. Đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ công bằng xã hội bảo đảm công bằng, bình đẳng cho mọi người dân. Hai là, Đảng lãnh đạo xây dựng
Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Ngay sau khi có chính quyền cách mạng, theo chỉ dẫn lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí minh đã thực hiện xây dựng, từng bước hoàn
thiện nhà nước dân chủ, cách mạng. Sau 70 năm xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân và gần như đồng thời với quá trình đổi mới đất nước, chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã trở thành hiện thực và đạt được sự thống
nhất cao trong nhận thức cũng như quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân
ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng
ta xác định là một nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, là một nguyên tắc hiến định cơ bản trong đời sống chính trị của dân tộc.
Đó là các nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với các cơ chế bảo đảm
cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân; nguyên tắc bảo
đảm quyền lực là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có
sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước; nguyên tắc Đảng lãnh đạo
xây dựng nhà nước tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Thành tựu của
Đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước tiếp tục được khẳng định như: Đảng giữ
vững được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, dẫn dắt quá trình nhận thức, thể
chế hóa các quan điểm, tư tưởng trên cả phương diện chính trị và pháp lý về nhà
nước pháp quyền trong cải tổ bộ máy nhà nước đến cải cách hành chính, cải cách
tư pháp. Nhà nước pháp quyền XHCN thể hiện ngày càng rõ hơn vị trí một thiết chế
chính trị trung tâm, chủ động liên hệ chặt chẽ với nhân dân, với sự lãnh đạo của
Đảng. Ba là, Đảng lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức.
Thực tiễn cho thấy, bất cứ đảng cầm quyền nào cũng làm như vậy. Trong vấn đề này,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng đội ngũ cán bộ trong quá trình cách mạng, nhất
là đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị khi đảng cầm quyền và coi đó là việc
gốc của Đảng, công việc gốc là công việc phải làm đầu tiên, thường xuyên, liên
tục, lâu dài. Công tác cán bộ và quản lý cán bộ của Đảng hơn bảy thập kỷ qua đã
đạt được những thành tựu rất quan trọng: đội ngũ cán bộ tiếp tục có bước trưởng
thành, bảo đảm cả về số lượng và chất lượng, có cơ cấu hợp lý, đáp ứng tiêu chuẩn
về năng lực, phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ cách mạng; công tác tổ chức, bố trí
cán bộ được thực hiện đồng bộ, đúng quy trình, nhìn một cách tổng quát, đội ngũ
cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị đã đảm bảo
tính kế thừa, liên tục, vững vàng. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…như Hội nghị lần thư
tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã nêu. Để khắc phục tình trạng này, chúng
ta không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng và từng
cán bộ, đảng viên, tiếp tục kiên định đường lối đổi mới, kiên quyết đấu tranh
chống các khuynh hướng giáo điều, bảo thủ, nóng vội trong công tác này. Tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, thể chế
hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng
bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp. Bốn là, Đảng lãnh đạo công tác
kiểm tra, thanh tra. Từ
khi ra đời đến nay, nhất là khi có chính quyền, Đảng ta trở thành đảng cầm quyền,
Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Công tác kiểm tra, giám sát của các
cấp ủy đảng và thanh tra nhà nước có những bước chuyển rất tích cực: công tác kiểm tra, giám sát và thanh tra được tiến
hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc,
phương pháp công tác đảng. Tuy nhiên, tổ
chức cơ sở đảng nhiều nơi yếu kém, có nơi tê liệt; không làm tròn vai trò hạt
nhân chính trị và nền tảng của Đảng; phương thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng
túng; bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ, địa phương, kèn cựa, địa vị, cá nhân chủ
nghĩa có dấu hiệu gia tăng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa
làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu
quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện
đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra,
giám sát, phòng ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm,
sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Để khắc phục những tồn
tại, yếu kém nêu trên, các cấp ủy Đảng cần tập trung thực hiện tốt chương trình
kế hoạch kiểm tra, giám sát, và thanh tra nhà nước trên một só lĩnh vực quản lý
thu, chi tài chính và kiểm tra những tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm. Năm
là, phương thức lãnh đạo của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là
vấn đề có tính quy luật, nhất là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Trong quá trình lãnh đạo, đặc biệt từ khi cầm quyền Đảng ta luôn quan tâm đến đổi
mới phương thức lãnh đạo, điều đó được thể hiện trong các văn kiện của Đảng và
trong thực tế. Bởi vì, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội.
Đảng phải coi trong và đề phòng những căn bệnh lộng quyền, lạm quyền…phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có tác động mạnh mẽ tới chính bản thân Đảng
và các lĩnh vực khác, góp phần tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng,
tăng cường mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa Đảng với chính quyền, Mặt trận, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong khi khẳng định những bước tiến trên đây,
thực tế cũng cho thấy việc đổi mới phương thức của Đảng đối với Nhà nước chưa
theo kịp yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý về kinh tế, quản lý nhà nước, dân chủ
hóa xã hội. Quan hệ và lề lối làm việc giữa một số tổ chức chưa phát huy được đầy
đủ vai trò, tác dụng của chính quyền, trí sáng tạo và kinh nghiệm của nhân dân,
ảnh hưởng tới việc thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng. Để khắc phục những
tồn tại yếu kém trên đây, cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng theo hướng mở rộng dân chủ, hướng về cơ sở, nâng cao chất lượng ban hành
nghị quyết, rà soát, bổ sung quy chế hoạt động, phân công, phân nhiệm rõ ràng. Những thành tựu 70 năm qua trong nhận thức lý luận về
Đảng cầm quyền và xây dựng Đảng đã tiếp thêm sức mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước. Mặt
khác, chính thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay
cũng đang tiếp tục khẳng định những giá trị lý luận và thực tiễn về Đảng cầm
quyền duy nhất ở Việt Nam, là một Đảng Mác xít chân chính - người tổ chức và
lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam./.
|