MỤC LỤC
1. Nghị quyết 10 của Đảng bộ nhà trường “Về nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng bộ trường Chính trị Trường
Chinh trong giai đoạn mới”
2. Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” với việc rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay
3. Đồng chí Lê Đức Thọ với công tác
vận động quần chúng của Đảng
4. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Một trong những
giải pháp rèn luyện đội ngũ đảng viên Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định
hiện nay
5. Mối quan hệ giữa nhà nước và Đảng Cộng sản
trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
6. Quan điểm của V.I.Lênin về “Sự tiêu vong” của
nhà nước trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
7. Học tập và vận dụng tư tưởng trọng dân, vì dân
của Hồ Chí Minh trong xây dựng hệ thống chính trị ở cấp cơ sở hiện nay
8. Học tập phong cách tư duy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh để nâng cao chất lượng giảng dạy tại Trường Chính trị Trường Chinh
9. Những
biểu hiện mới của nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”
trong Hiến pháp năm 2013
10. Một số điểm mới về phát triển kinh tế tư nhân
trong Nghị quyết 10 Hội nghị lần năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII
11. Phát huy vai trò chủ thể của quần chúng nhân
dân - Yếu tố quyết định thắng lợi trong xây dựng nông thôn mới tại Nam Định
12. Một số kinh nghiệm trong việc soạn và giảng
bài “Nghiệp vụ công tác Mặt trận Tổ quốc và vận động xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc ở cơ sở”
13. Phương pháp giảng dạy tích cực đối với giảng
viên trẻ
14. Một số điểm mới trong quy chế đánh giá và quản
lý kết quả học tập của học viên Trung cấp lý luận chính trị - hành chính
15. Một số khó khăn trong tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã trên địa bàn tỉnh Nam Định
16. Phát huy tính tích cực và chủ động của đoàn
viên - giảng viên trong nghiên cứu khoa học
17. Xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công
chức, viên chức tại Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định - Những vấn đề đặt
ra
NỘI DUNG BÀI VIẾT
ĐẢNG
BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH NAM ĐỊNH
ĐẢNG ỦY TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
*
Số: 10-NQ/ĐU
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nam Định, ngày 18 tháng 10 năm 2016
|
NGHỊ QUYẾT
“Về nâng cao chất lượng, hiệu quả Công
tác tư tưởng của đảng bộ
trường Chính trị Trường Chinh trong giai
đoạn mới”
----------------
I. TÌNH HÌNH TƯ TƯỞNG VÀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG THỜI
GIAN QUA
l. Về tình
hình tư tưởng
Trong những năm qua, trước những thành tựu về phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh và sự phát triển của nhà trường, tình hình tư
tưởng trong nhà trường ổn định, đại đa số cán bộ, đảng viên phấn khởi, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng ủy, sự điều hành của Ban Giám đốc; hăng hái thi
đua, sáng tạo trong giảng dạy, học tập và công tác; thường xuyên nêu cao vai
trò tiền phong, gương mẫu thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị; không ngừng phát
huy truyền thống đoàn kết trong cơ quan, góp phần thực hiện thắng lợi nghị
quyết của Đảng cấp trên và nhiệm vụ chính trị của nhà trường trong giai đoạn
phát triển mới.
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường, âm mưu
“Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng
đã có những ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên; một bộ phận
cán bộ, đảng viên có biểu hiện né tránh, ngại va chạm, làm giảm sức chiến đấu
trong sinh hoạt đảng và dân chủ trong cơ quan; những băn khoăn nảy sinh trong
tư tưởng của cán bộ, đảng viên, nhân viên chưa được khắc phục kịp thời.
2. Về công
tác tư tưởng
Thời gian qua, công tác tư tưởng của Đảng bộ nhà
trường thường xuyên được coi trọng, công tác quán triệt, học tập Nghị quyết của
Đảng, pháp luật của Nhà nước được đổi mới theo hướng thiết thực, hiệu quả; nội
dung và phương thức công tác tư tưởng từng bước được đổi mới trên cơ sở bám sát
nhiệm vụ chính trị của nhà trường; hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú,
và có tính thuyết phục cao; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có sự gắn kết
chặt chẽ đối với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; kiên quyết đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch,
các biểu hiện tiêu cực khác; thường xuyên nắm bắt, phản ánh kịp thời tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, công tác tư tưởng của Đảng bộ nhà trường
những năm qua còn gặp nhiều lúng túng, bất cập, việc kết hợp giữa giáo dục chính
trị, tư tưởng với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân thiếu đồng bộ; chất lượng
sinh hoạt tư tưởng trong một số chi bộ còn thấp; việc tiếp cận, xử lý thông tin
trên mạng xã hội của một số ít cán bộ, đảng viên thiếu khách quan, toàn diện.
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có
cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ
yếu: một số chi uỷ, chi bộ chưa đặt công tác tư tưởng ngang tầm với yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường; sự phối kết hợp giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức cán bộ,
công tác kiểm tra, giám sát thiếu chặt chẽ; một
bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu; một số chi bộ chưa nắm chắc
diễn biến tư tưởng và chưa giải thích kịp thời các ý kiến, kiến nghị hợp pháp,
chính đáng của cán bộ, đảng viên; cán bộ làm công tác tư tưởng còn thiếu, hiệu
quả hoạt động tuyên truyền chưa cao.
II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU
1. Phương
hướng
Phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng bộ và các tổ chức
đoàn thể chính trị - xã hội trong nhà trường đối với công tác tư tưởng, góp
phần thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của các cấp ủy
Đảng.
Thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ủy
đối với công tác tư tưởng; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính thực
tiễn; gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng với việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của nhà trường; củng cố, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng bộ; kiên quyết ngăn chặn và từng bước đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân viên; xây dựng Đảng
bộ trong sạch vững mạnh, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ
quan, đơn vị.
2. Nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu
2.1. Tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc, phát huy sức mạnh của các
tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác tư tưởng.
Xây dựng Đảng về tư tưởng là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của cấp ủy, các chi bộ trực thuộc và mọi cán bộ, đảng viên trong
nhà trường. Đồng chí Bí thư cấp uỷ phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu
trách nhiệm về kết quả công tác tư tưởng của đảng bộ cũng như trong tập thể nhà
trường.
Trong chương trình công tác hàng năm, hàng quý, Đảng
ủy, Ban Giám đốc cần xác định nhiệm vụ trọng tâm và xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm
gắn kết chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với các công tác khác của nhà trường,
gắn công tác xây dựng Đảng với thực hiện nhiệm vụ chính trị; lựa chọn một số
vấn đề cấp thiết về công tác tư tưởng để tập trung chỉ đạo thực hiện có kết
quả.
Tăng cường công tác kiểm tra việc chỉ đạo thực hiện
công tác tư tưởng, trong đó tập trung kiểm tra: việc triển khai, quán triệt,
thực hiện các nghị quyết và chỉ thị của các cấp uỷ Đảng; việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; chế độ học tập lý luận chính
trị; chế độ cung cấp, tiếp nhận thông tin và việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức,
phong cách của cán bộ, đảng viên, nhân viên.
Tuyên giáo Đảng
ủy chủ trì xây dựng quy chế phối hợp với tổ chức đoàn thể, các đơn vị chức năng
trong nhà trường để triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của công tác
tư tưởng. Định kỳ hàng tháng các chi ủy, chi bộ thực hiện tốt chế độ báo cáo
trước Đảng ủy về sự phát sinh, diễn biến tư tưởng trong đơn vị.
2.2. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
Trung ương 4 (Khoá XI) và Chỉ thị 05 của BCT về học tập tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh.
Đảng uỷ, các chi bộ tập trung chỉ đạo thực hiện nghiêm
túc kế hoạch khắc phục, sữa chữa khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê
bình; đồng thời tiếp tục triển khai Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “ Một số vấn đề cấp bách về về xây dựng Đảng
hiện nay”. Triển khai đồng bộ các giải pháp trong kế hoạch thực hiện Chỉ
thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và
hành động của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt trong nhà trường;
tăng cường kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch làm theo Bác của cán
bộ, đảng viên; xây dựng, tuyên truyền và nhân rộng điển hình tiên tiến có sức
lan toả, thuyết phục cao trong cơ quan.
2.3 Đổi mới,
nâng cao chất lượng công tác quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị của các cấp ủy Đảng và các văn bản của Nhà nước; tăng cường công tác bồi
dưỡng lý luận chính trị, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên.
Đổi mới việc quán triệt, học tập và triển khai nghị
quyết của Đảng cấp trên đảm bảo nghiêm túc, kịp thời và từng bước đổi mới theo
hướng thiết thực, hiệu quả; xác định rõ nội dung, yêu cầu phù hợp với nhiệm vụ
chính trị của nhà trường. Ban thường vụ Đảng uỷ thảo luận, xây dựng chương
trình hành động thực hiện nghị quyết bảo đảm sát, đúng với tình hình của cơ
quan và các điều kiện thực hiện. Cần có các hình thức lấy ý kiến tham gia đóng
góp của cán bộ, đảng viên về các giải pháp thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đồng
chí bí thư cấp ủy chịu trách nhiệm chính trong việc quán triệt, xây dựng chương
trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị trong cơ quan, đơn vị.
Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập lý luận chính trị
đối với cán bộ, đảng viên theo quy định của Đảng, của Tỉnh ủy. Đổi mới phương
pháp, hình thức tuyên truyền, thông tin cập nhật kiến thức mới, những kinh
nghiệm thực tiễn cho cán bộ, đảng viên.
Tăng cường giáo dục truyền thống quê hương, đất nước,
đạo đức nghề nghiệp nhất là truyền thống 60 năm phát triển của nhà trường cho
cán bộ, đảng viên, nhân viên, học viên nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm của
cán bộ, giảng viên nhất là thế hệ trẻ.
2.4. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền,
hoạt động Website.
Đổi
mới nội dung, hình thức tuyên truyền thông qua các phong trào thi đua viết đăng
trên Nội san, trang Website; đổi mới phương pháp giảng lý luận chính trị, đảm
bảo tính thời sự, định hướng tư tưởng, đồng thời có sức hấp dẫn, lôi cuốn người
học. Tập trung tuyên truyền cho những sự kiện lớn có ý nghĩa chính trị của đất
nước, của tỉnh, những nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường trong từng giai đoạn.
Đối với những nhiệm vụ quan trọng, cần chỉ đạo công tác tuyên truyền đi trước
một bước với sự tham gia của các đoàn thể. Tăng cường công tác tuyên truyền
miệng; mở rộng các hình thức cung cấp thông tin, thời sự; tăng cường đối thoại
giữa các đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý của nhà trường với các đồng chí
giảng viên và nhân viên nhất là các đồng chí trẻ.
Thực hiện nghiêm túc Luật Báo chí, Quy định của Tỉnh
ủy về “cung cấp, tiếp nhận và xử lý thông tin trên báo chí”, Quy chế của UBND
tỉnh về “phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí”; ngăn chặn, xử lý kịp
thời việc phát tán, lưu hành các sản phẩm văn hoá độc hại.
2.5. Kịp thời
nắm bắt, xử lý những vấn đề phát sinh về tư tưởng trong Đảng bộ nhà trường.
Thực hiện nghiêm túc quy định của Bộ Chính trị về giám
sát và phản biện xã hội. Đảm bảo các điều kiện để thực hiện tốt quy chế dân chủ
cơ quan. Tăng cường chỉ đạo nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên,
nhân viên và học viên của nhà trường. Chủ động, tích cực đấu tranh với những
thông tin sai trái, bịa đặt của các thế lực thù địch và phần tử xấu.
2.6. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
Tăng cường đổi mới nội dung, hình thức và nâng cao
chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ. Thực hiện nghiêm túc sinh hoạt chi bộ theo
định kỳ; chú trọng các nội dung giáo dục, rèn luyện lập trường tư tưởng, đạo
đức lối sống; tích cực đấu tranh tự phê bình, phê bình và góp ý sửa chữa những
biểu hiện lệch lạc, các vi phạm của đảng viên ngay từ chi bộ. Thực hiện quy chế
cung cấp thông tin cho đảng viên trong sinh hoạt chi bộ. Tăng cường sự phối hợp
chi bộ cơ quan với chi bộ nơi cư trú để quản lý chặt chẽ đảng viên.
2.7. Củng cố
kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường cơ sở, vật chất, điều kiện làm việc của
nhà trường
Tiếp tục củng cố, kiện toàn bộ máy các tổ chức đoàn
thể, các đơn vị khoa phòng chức năng chuyên môn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của nhà trường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của các đơn vị. Có kế
hoạch tạo nguồn đào tạo, bồi dưỡng một số cán bộ có năng lực, sở trường về công
tác tư tưởng.
Xây dựng, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ lý luận và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, viên chức, nhân
viên của nhà trường theo yêu cầu chuẩn hóa. Tăng cường cải tạo, nâng cấp thư
viện, nhà truyền thống, trang bị hệ thống máy tính, máy chiếu, mạng Internet
đáp ứng yêu cầu khai thác, cập nhật kiến thức của cán bộ, giảng viên và học
viên, từng bước triển khai, thực hiện có hiệu quả thư viện điện tử.
2.8. Tập trung
lãnh đạo hoạt động nghiên cứu khoa học và dịch vụ, từng bước nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của cán bộ, nhân viên nhà trường.
Tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ nhà trường khóa VIII và các nghị quyết chuyên đề. Đẩy mạnh thực
hiện cải cách thủ tục hành chính, chú trọng rà soát, loại bỏ các thủ tục không
phù hợp. Tăng cường triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học và dịch vụ, chuyển
giao những sản phẩm nghiên cứu khoa học, biên soạn tài liệu phục vụ đào tạo,
bồi dưỡng và các đề án, đề tài liên quan đến nhiệm vụ chính trị của các địa
phương và của tỉnh. Xử lý kịp thời cán bộ, đảng viên tham nhũng, thiếu tinh
thần trách nhiệm, vi phạm kỷ luật nghề nghiệp trong thi hành nhiệm vụ.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Ban Thường vụ Đảng ủy chỉ đạo các chi ủy, chi bộ
trực thuộc Đảng ủy tổ chức triển khai quán triệt nghị quyết đến cán bộ, đảng
viên và xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết phù hợp với tình hình thực tiễn
của đơn vị.
2. Tuyên giáo Đảng ủy chủ trì, phối hợp với văn phòng
Đảng ủy xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện Nghị quyết.
3. Các khoa, phòng chức năng và các tổ chức đoàn thể
của nhà trường căn cứ chức năng, nhiệm
vụ của mình xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết.
4. Tuyên giáo Đảng ủy chủ trì tham mưu cho Ban Thường
vụ chỉ đạo triển khai Nghị quyết.
5. Tuyên giáo, Văn phòng Đảng ủy phối hợp các tổ chức,
đơn vị liên quan thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, theo dõi việc thực hiện Nghị
quyết và báo cáo kết quả với Ban Thường vụ Đảng ủy.
Nghị quyết này được phổ biến đến các chi bộ và cán bộ,
đảng viên trong Đảng bộ./.
Nơi nhận:
- Ban Thường vụ ĐUK (để báo cáo);
- UVBCH Đảng bộ;
- Các chi bộ khoa, phòng;
- Các tổ chức đoàn thể
CT-XH của trường;
- Lưu VP ĐU.
|
T/M BAN
THƯỜNG VỤ
BÍ THƯ
(Đã ký)
Phạm Thị Thanh
Thủy
|
TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC” VỚI VIỆC RÈN LUYỆN
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
THS, GVC. LÊ THỊ NHƯ HOA Phó Giám đốc
Tháng 10-1947, tại Việt Bắc với bút danh XYZ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Mục đích của
tác phẩm là: nâng cao trình độ lý luận, nâng cao tư tưởng và tình cảm cách
mạng, nâng cao phẩm chất đạo đức, tác phong công tác của người cán bộ cách
mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của cách mạng. Trong
đó, vấn đề đạo đức cách mạng đã được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm.
Trước hết, Người nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của
đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên. Người cho rằng đạo đức cách mạng
là “cái gốc”, cái căn bản của người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức. Không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Người, đạo đức cách mạng là cơ sở, nền tảng để mỗi cán bộ, đảng viên phấn
đấu hoàn thiện mình. Bởi lẽ, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội
mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề,
một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Ngoài nền tảng tư tưởng lý luận,
mục tiêu lý tưởng cách mạng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, đạo đức
cách mạng còn là nhân tố bảo đảm sự thống nhất, là cơ sở củng cố khối đoàn kết
vững chắc trong Đảng. Tư tưởng đó không những thể hiện nhất quán, sâu sắc trong
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” mà còn thể hiện xuyên suốt trong cả cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người, từ những bài giảng đầu tiên trong tác phẩm “Đường
cách mệnh” cho đến Di chúc cũng như qua những lời dạy bảo của Người.
Đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí Minh được biểu hiện ở
các đức tính: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Những đức tính về đạo đức cách mạng
của Hồ Chí Minh thể hiện sự bao quát đầy đủ các mối quan hệ, từ mối quan hệ với
Tổ quốc, nhân dân đến mối quan hệ với tập thể, cá nhân. Tư tưởng đó cũng phản
ánh con đường biện chứng của quá trình rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi
người từ tình cảm đến nhận thức trách nhiệm và tiến lên xây dựng ý chí cách
mạng để hành động cách mạng.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng tự tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên. Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên
phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Về nguyên tắc rèn luyện đạo đức là phải thường
xuyên, liên tục. Bởi vì đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Nói phải đi đôi với làm, phải
nêu gương về đạo đức cách mạng cho người khác học tập, noi theo. Người nói: “trước
mắt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “Cộng sản” mà ta được họ yêu
mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước".
Trong “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh gắn chặt
việc bồi dưỡng đạo đức cách mạng với quét sạch chủ nghĩa cá nhân, một căn bệnh
dễ mắc phải của cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh cho rằng trong tương lai, đội
ngũ cán bộ, đảng viên sẽ ngày càng tăng do nhu cầu phát triển của cách mạng,
nếu được giáo dục tốt, tổ chức tốt, cán bộ tự rèn luyện tốt, thì trình độ, phẩm
chất của đội ngũ này sẽ ngày càng được nâng cao, phục vụ đắc lực cho công cuộc
kháng chiến và kiến quốc. Nhưng nếu không được giáo dục tốt, tổ chức tốt, cán
bộ không tự rèn luyện tốt, thì chính trong đội ngũ này sẽ nảy sinh những tiêu
cực. Nó làm thoái hoá biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, làm
cho Đảng suy yếu. Nếu không kịp thời phát hiện và kiên quyết chống chủ nghĩa cá
nhân, để cho nó lây lan, ngấm dần vào cơ thể sống của Đảng, sẽ dẫn đến thoái
hoá, biến chất Đảng. Thậm chí làm cho Đảng phân liệt, tan rã, mất vai trò lãnh
đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân “là thứ vi
trùng rất độc, gây ra các bệnh: bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo,
bệnh hiếu danh, thiếu bí mật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ …, hữu danh
vô thực, kéo bè, kéo cánh, bệnh cận thị, bệnh cá nhân”.
Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cách chữa trị
hiệu quả nhất, đối với các căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra. Trước hết mỗi
cán bộ, đảng viên phải tự sửa mình bằng cách “mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự
phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải tự rửa mặt”[4]. Người nói: “Được như thế, thì trong Đảng sẽ không
có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng”.
Người cán bộ phải biết rèn luyện nhân cách. Nhân cách
thể hiện ở đạo đức, tác phong, khiêm tốn, chân thành, cách ứng xử văn hoá, biết
tình thương và lẽ phải, tình cảm và lý trí. Theo Hồ Chí Minh, phải thường xuyên
tham gia sinh hoạt Đảng. Trong sinh hoạt phải đề cao tinh thần phê bình và tự
phê bình, “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”.
Để người được phê bình tiếp thu một cách tự giác, người phê bình phải hết sức
trung thực, chân thành, phê bình để xây dựng cho đồng chí mình tốt lên, chứ
không phải trù dập đồng chí, đánh cho đồng chí “một đòn chết tươi”. Đối với
người được phê bình, phải bình tĩnh, có gan nhận khuyết điểm để sửa chữa. Do
vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thật thà, dũng cảm tự xét mình và xét đồng
chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp
nhau sửa chữa “thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”. Đối
với các khuyết điểm cần phân tích rõ ràng, cái gì đúng, cái gì sai; ra sức đấu
tranh sửa chữa khuyết điểm; khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng
chí khác sửa chữa những sai lầm; phải nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết,
tính tổ chức và tính kỷ luật, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Phải “vị công vong
tư”, “không hiếu danh kiêu ngạo”, nói thì phải làm, “ít lòng tham muốn về vật
chất”; đoàn kết Đảng bằng sự phê bình, đấu tranh trong nội bộ; nâng cao
năng lực và uy tín lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức cách mạng của người cán
bộ, đảng viên là điểm mấu chốt có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Đảng, là
nhân tố quan trọng hàng đầu có tác dụng lôi cuốn, cổ vũ mạnh mẽ đối với quần
chúng nhân dân trong việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng. Quần chúng
nhân dân tự nguyện đi theo Đảng không chỉ vì Đảng ta có đường lối, phương pháp
cách mạng đúng, mà còn vì Đảng ta bao gồm những cán bộ, đảng viên có đạo đức
trong sáng, thực sự nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Tuy nhiên, “quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách đạo đức”. Yêu cầu về sự gương mẫu, tiên phong
trước quần chúng đòi hỏi người cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng rèn luyện đạo
đức thường xuyên ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh; đồng thời
sự tín nhiệm của quần chúng, sự tin tưởng của xã hội sẽ là cổ vũ lớn lao đối
với cán bộ, đảng viên, giúp mỗi người nỗ lực phấn đấu vươn lên đạt tới những
đỉnh cao về nhân cách.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh, Đảng ta luôn đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên ở bất kỳ cương
vị nào cũng phải nghiêm túc học tập, tự giác rèn luyện, thường xuyên tu dưỡng
đạo đức cách mạng, nêu cao tính chiến đấu, tự phê bình và phê bình trong mọi
hoạt động công tác, lao động, học tập, chiến đấu và cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày. Công tác xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng luôn được xác định là khâu
then chốt, một nội dung cơ bản quan trọng của công tác xây dựng Đảng, nằm trong
chiến lược con người và là một nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức đảng và
toàn Đảng. Đồng thời là một vấn đề có tính cấp bách về xây dựng Đảng trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, phát triển số
lượng, làm trong sạch đội ngũ đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức Đảng; góp phần làm cho toàn Đảng luôn được củng cố
vững chắc, phát triển mạnh mẽ, xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng. Đa
số cán bộ, đảng viên có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ vững phẩm
chất đạo đức, vai trò tiên phong gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm
vụ. Song, bên cạnh đó vẫn còn “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả
một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém cả về phẩm chất, năng lực; thiếu tính
chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, thiếu lòng tin, phai nhạt lý tưởng; một số ít có biểu hiện
bất mãn, v.v. bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận đảng viên có
chiều hướng gia tăng; vẫn có tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy
bằng cấp”. Thoái hoá, biến chất về chính trị đạo đức lối sống; tệ quan liêu
tham nhũng, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn
ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được đẩy lùi, v.v.”
Đứng trước thực trạng trên, vấn đề giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trở thành một nội dung quan trọng
trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII chỉ rõ: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Tập trung thực hiện mục tiêu xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Ban
Chấp hành Trung ương khoá XI, khoá XII đã ban hành Nghị quyết hội nghị lần thứ
4 - Nghị quyết chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đồng thời, để góp phần làm cho toàn Đảng, toàn dân
nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản, giá trị to lớn của tư tưởng và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức
tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức của Người; đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, Bộ Chính
trị (khóa X, khoá XI, khoá XII) đã ban hành Chỉ thị số 06, 03, 05 về học tập và
làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Trong Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016, Bộ
Chính trị yêu cầu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là một nội dung
quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, v.v., xây dựng đội ngũ cán
bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm
nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, v.v. Lấy kết quả học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu
chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm.
Có thể nói rằng, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016
của Bộ Chính trị là sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” trong giai đoạn hiện nay. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức
sâu sắc và nghiêm túc thực hiện Chỉ thị, cũng chính là thực hiện di huấn của
Bác trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” để không ngừng hoàn thiện bản thân, hoàn
thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó./.
ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC THỌ VỚI CÔNG TÁC VẬN
ĐỘNG
QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG
TS. HOÀNG ĐÌNH TRUNG
Phó Giám đốc
Đồng chí Lê Đức Thọ - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí
thư Trung ương Đảng, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức
Trung ương, một trong những người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương Nam Định văn hiến, giàu truyền
thống lịch sử văn hóa, cách mạng, đồng chí đã vinh dự trở thành đảng viên của
Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới 18 tuổi và thuộc lớp những đảng viên cộng sản
đầu tiên của Đảng ta.
Suốt cuộc đời cách mạng đầy sóng gió qua các thời kỳ
cách mạng, trên nhiều cương vị công tác, đồng chí đã tỏ rõ là một nhà lãnh đạo
giàu kinh nghiệm, tài năng trên nhiều lĩnh vực. Đồng chí đã dành nhiều thời
gian và tâm sức cho công tác xây dựng đảng và để lại cho chúng ta nhiều quan
điểm và những bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng, trong đó có công
tác dân vận của Đảng.
Trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định,
sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, vì nhân dân và phải
do chính nhân dân thực hiện. Nhận thức rõ sức mạnh vô địch của cuộc chiến tranh
cách mạng, chiến tranh nhân dân là ở được đông đảo quần chúng nhân dân tích cực
tham gia, ủng hộ. Đồng chí khẳng định, trong quan hệ đó vai trò lãnh đạo của
Đảng trước hết và chủ yếu nhất là phải tuyên truyền, giáo dục, vận động và tổ
chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo
nhân dân “là quá trình phát động quần
chúng liên tục, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao. Không có phát động quần chúng
thì không có bất cứ một cuộc cách mạng nhân dân chân chính nào”.
Để có được những thắng lợi và thành quả cách mạng là do Đảng luôn liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, tôn trọng, lắng nghe và dựa lực lượng quần chúng nhân dân. Từ
thực tiễn đó, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trở thành mối quan hệ máu
thịt, thể hiện bản chất và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Tổng kết thực tiễn cách mạng nước ta, đồng chí khẳng
định sức mạnh của quần chúng, ý nghĩa của công tác vận động quần chúng “Không có sự phát động quần chúng, chỉ có
trông vào lực lượng của đảng viên thì làm sao Đảng ta có thể lãnh đạo cách mạng
tháng Tám thành công, giữ vững nổi chính quyền cách mạng?”.
Công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như công cuộc hợp tác hóa nông
nghiệp là thay đổi tận gốc quan hệ sản xuất; công cuộc vận động cải tiến chế độ
quản lý xí nghiệp, phát động công nhân tham gia quản lý xí nghiệp… phải là quá
trình tự giác của hàng triệu quần chúng. Toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó phải do
Đảng lãnh đạo nhưng đó phải là quá trình phát động quần chúng liên tục, không
có vận động quần chúng thì “không có bất
cứ một cuộc cách mạng nhân dân chân chính nào”.
Công tác vận động quần chúng nhân dân phải được xác định là nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục của Đảng, của từng chi bộ và trở thành một phương thức lãnh đạo
của Đảng ta, là trách nhiệm của mỗi đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành
Đảng cầm quyền.
Như vậy, tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác
vận động quần chúng có ý nghĩa, vai trò quan trọng đối với vai trò lãnh đạo và
nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng. Làm thể nào để tăng cường và nâng
cao hiệu quả công tác vận động quần chúng? Theo đồng chí, để quần chúng nhân
dân tin và tự giác thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, trước hết quần
chúng phải được biết, được bàn và tham gia ý kiến. Thực hiện hiệu quả công tác
vận động quần chúng “một vấn đề then chốt
là phải thực hiện đầy đủ dân chủ với quần chúng”.
Trong quá trình lãnh đạo của Đảng, trước hết mọi việc, chủ trương, nghị quyết
của Đảng phải được phổ biến công khai để mọi cán bộ, đảng viên được biết, được
đóng góp ý kiến. Đồng thời, tổ chức tuyên truyền, phải “thật thà bàn bạc với quần chúng” để nhân dân nắm được chủ trương,
đường lối của Đảng, được tham gia nghiên cứu, đóng góp ý kiến. Đảng phải thực
sự tôn trọng và lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, phải học
hỏi kinh nghiệm từ quần chúng trước khi đưa ra quyết định. Như vậy là Đảng mới
thực hiện được phương châm “đi theo đường lối của nhân dân”, mới khuyến khích,
động viên được tính tự nguyện, tự giác và phát huy được tính tích cực, sáng tạo
của quần chúng trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.
Đồng chí cũng chỉ ra: Nguy cơ lớn nhất đối với một
Đảng lãnh đạo khi đã trở thành một Đảng cầm quyền là xa rời quần chúng, trong
lãnh đạo mắc phải bệnh quan liêu mệnh lệnh. Khi trở thành Đảng cầm quyền, cán
bộ của Đảng trở thành công chức trong bộ máy nhà nước nắm trong tay những quyền
lực hành chính, kinh tế rất lớn. Từ đó, không ít cán bộ, đảng viên có thể sa
đọa, sinh ra đặc quyền, đặc lợi, xa rời quyền, lợi ích của nhân dân, quên đi
cái bổn phận phục vụ nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo không ít cán bộ, đảng
viên không chịu đi sát tìm hiểu, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng và
“không bền bỉ làm công tác vận động quần
chúng, vi pham dân chủ”. Khi đưa ra các quyết định chỉ căn cứ và ý muốn chủ
quan, cảm tính của cá nhân. Tổ chức thực hiện các chủ trương, quyết định của
Đảng, Nhà nước thì thích dùng quyền lực hành chính nhà nước, uy tín của Đảng mà
ép buộc quần chúng phải nghe, phải làm theo mà không tổ chức tuyên truyền,
thuyết phục, vận đồng quần chúng “không
biết dựa vào quần chúng, thậm chí còn cho rằng, nếu không dùng biện pháp mệnh
lệnh, thì không thể hoàn thành nhiệm vụ”.
Như vậy, là coi thường quần chúng, không nhận thấy sức mạnh và không tin vào
sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Với phương thức lãnh đạo quan liêu mệnh lệnh như vậy
kết quả “rốt cuộc là nếu không thất bại
thì làm cũng chậm, ít, xấu và lãnh phí”.
Đồng chí nhấn mạnh đây là một nguy cơ dẫn tới phai nhạt bản chất cách mạng của
Đảng, làm tổn hại tới mối quan hệ máu thị giữa Đảng với nhân dân và vai trò
lãnh đạo của Đảng. Làm thế nào để khắc phục bệnh quan liêu mệnh lệnh và tăng
cường công tác vận động quần chúng? Đồng chí yêu cầu trong quá trình xây dựng
Đảng “Chúng ta phải thường xuyên giáo dục
cho cán bộ, đảng viên về ý thức phục vụ lợi ích của quần chúng, về tác phong
công tác đi đường lối quần chúng”.
Thông qua đó mỗi đảng viên phải nhận thức rõ và đầy đủ về bản chất vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Đảng lãnh đạo cách
mạng, lãnh đạo nhân dân không phải đứng trên và làm thay nhân dân. Vai trò lãnh
đạo của Đảng là: phải đoàn kết quần chúng
nhân dân, phát động và tổ chức đông đảo quần chúng nhân dân đứng lên tiến hành
sự nghiệp cách mạng, tự giải phóng cho mình.
Công tác vận động quần chúng nhân dân thì ai làm? Vận
động quần chúng trước hết là trách nhiệm của tổ chức đảng, của từng đảng viên.
Vì vậy, cần “nhấn mạnh vai trò và trách
nhiệm của chị bộ, đảng viên trong công tác vận động quần chúng”.
Các chi bộ, đảng viên phải là cầu nối liên kết giữa Đảng với nhân dân, là nơi
và lực lượng trực tiếp tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng đến nhân
dân, trực tiếp động viên và tổ chức nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng. Công tác vận động quần chúng phải là một nhiệm vụ cơ bản và thường
xuyên của chi bộ, của từng đảng viên. Mỗi đảng viên “phải luôn luôn liên hệ chặt chẽ với quần chúng, tìm hiểu nguyện vọng và
ý kiến của quần chúng, ra sức tuyên truyền phổ biến sâu sắc chính sách của Đảng
trong quần chúng”.
Từ thực tiễn cách mạng, đồng chí yêu cầu: Tăng cường
công tác vận động quần chúng nhân dân dân, từng chi bộ Đảng phải phân công cho
từng đảng viên làm công tác vận động quần chúng và phụ trách một số người nhất
định trong quần chúng. Có như vậy, mới bảo đảm mỗi đảng viên “có trách nhiệm thường xuyên tìm hiểu tâm tư,
nguyên vọng, đời sống của số người đó và tuyên truyền đường lối, chính sách của
Đảng đến số người đó”.
Đây là biện pháp nâng cao nhận thức, trách nhiệm vận động và phục vụ quần chúng
của cán bộ, đảng viên, khắc phục tình trạng “Một số cán bộ, đảng viên chưa có đầy đủ ý thức phục vụ nhân dân, trong
công tác họ chỉ biết phụ trách trước cấp trên, mà không có tinh thần phụ trách
trước nhân dân”.
Nhưng theo đồng chí chỉ dựa vào lực lượng đảng viên
thì chưa đủ để thực hiện có hiệu quả đòi hỏi cấp ủy Đảng các cấp phải lãnh đạo
các tổ chức chính trị thực hiện công tác vận động nhân dân. Các cấp ủy đảng “phải biết quan tâm xây dựng và củng cố các
tổ chức quần chúng”
như: Đoàn thành niên, Công đoàn, Hội
liên hiệp hội phụ nữ…đây là nơi quần chúng tham gia sinh hoạt, nơi quần chúng nhân
dân thực hiện quyền và lợi ích, tham gia vào quá trình lãnh đạo, quản lý của
cấp ủy và chính quyền. Do vậy, Đảng phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo các tổ
chức này thực hiện công tác tuyên truyền, tổ chức các phong trào thi đua để qua
đó giáo dục, giác ngộ ý thức tự giác, tập hợp quần chúng nhân dân thực hiện các
nhiệm vụ cách mạng.
Với tinh thần cách mạng, đồng chí Lê Đức Thọ yêu cầu,
công tác vận động quần chúng các cấp ủy Đảng còn phải: gần gũi, đi sát bộ phận quần chúng trung bình, chậm tiến”. Đây là
công việc khó, nhất là đối với với các lực lượng chậm tiến về nhận thức, có
quan hệ với tàn dư của chế độ cũ. Để thực hiện hiệu quả công tác vận động quần
chúng đối với bộ phận này yêu cầu “không
thành kiến với họ, bền bỉ thuyết phục, giáo dục họ”.
Có thể khẳng định: với dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với thực tiễn cách mạng phong phú trải qua nhiều
cương vị công tác, trên nhiều lĩnh vực khác nhau đồng chí Lê Đức Thọ bên cạch
những đóng góp to lớn đối sự nghiêp cách mạng, đồng chí còn để lại cho Đảng và
cách mạng nước ta những quan điểm, kinh nghiệm có giá trị. Những quan điểm,
kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng của đồng chí đến nay vẫn có ý nghĩa thực
tiễn./.
HỌC TẬP TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
- MỘT TRONG NHỮNG GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN
ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY
THS. NGUYỄN THANH VÂN
Phó Trưởng khoa Xây dựng Đảng
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về đạo đức. Cả cuộc đời cách mạng,
Người đã hy sinh, phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Học tập tư
tưởng đạo đức của Người không chỉ làm sáng tỏ những giá trị tư tưởng, những phẩm
chất cao quý thể hiện trong nhân cách của Hồ Chí Minh, mà còn giúp cho cán bộ,
đảng viên biết vận dụng vào thực tiễn công việc. Do đó rèn luyện đội ngũ đảng
viên là vấn đề cực kỳ quan trọng, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng để
Đảng ta trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nước thì sông cạn. cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”.
Trong các tác phẩm của Người để
lại như: Đường Cách Mệnh (1927); Sửa đổi lối làm việc (1947); Cần, kiệm, liêm
chính (1949) cho đến Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
(1969), Bác đều nhắc đi nhắc lại đến việc rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng
viên. Người đảng viên trước hết là phải vừa “hồng”, vừa “chuyên” , tức
là phải hội tụ đầy đủ phẩm chất chính trị tốt, có năng lực công tác thực tiễn
để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Muốn xây dựng đội ngũ đảng viên mạnh,
trước tiên phải rèn luyện đạo đức, tư tưởng, phong cách của từng đảng viên. Vì
vậy, một đảng bộ mạnh sẽ có những đảng viên tốt, theo Người, “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây
chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê
liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành
trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”.
Trung với
nước, hiếu với dân , theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tức là suốt đời
phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ
nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị
- đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng
trước mắt, mà còn lâu dài về sau. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo
đức mà nó khác về chất với quan niệm đạo
đức của Nho giáo. Theo Hồ Chí Minh đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu, nó là đạo đức
mới, đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc, của loài người. Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách
mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng là người cán bộ chân chính. Cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư theo Hồ Chí Minh:
“Cần” tức là lao động cần cù, siêng năng,
cố gắng dẻo dai, làm việc có năng suất, hiệu quả, không lười biếng, không hiệu
quả, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng,
là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
“Kiệm” là
tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của
nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ
cộng lại thành cái to; không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô
trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Vì theo Người, “hoang phí là
một tội ác”.
“Liêm” là liêm
khiết, trong sạch, không cậy quyền cậy thế mà đục khoét của dân, "luôn
luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng
xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không
tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại.
“Chính”, "nghĩa là không
tà, thẳng thắn, đứng đắn":
Đối với mình:
không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để
phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh
người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không
dối trá, lừa lọc.
Đối với công việc: để việc công lên trên, lên trước việc
tư, việc nhà.
“Chí công vô tư ”, là ham làm những
việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú
quý. Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc".
“Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình
nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Người chí
công vô tư thì lòng dạ thảnh thơi, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt. Có chí công vô
tư mới nêu cao được chủ nghĩa tập thể, từ bỏ được chủ nghĩa cá nhân.
Khi nói về thi hành đạo đức cách
mạng đối với đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: …Những chính sách và
nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, đạo đức cách mạng của
người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính
sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng. Mọi đảng viên phải
nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng; phải ngăn ngừa và kiên
quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào
người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của đảng lên trên hết, lên trước lợi ích
cá nhân. Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần
chúng, hiểu quần chúng. Do đó lời nói và việc làm của đảng viên, đoàn viên và
cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân mến, dân yêu để đoàn kết quần chúng một
thành khối thống nhất chung quanh Đảng. Người đảng viên dù ở cương vị nào, làm
công việc gì không sợ khó, không sợ khổ để phục vụ lợi ích chung của giai cấp,
của nhân dân, đều nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Giàu sang không thể quyến rũ. Nghèo khó không thế chuyển lay, uy vũ
không thể khuất phục”.
Như vậy theo quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh cán bộ, đảng viên phải
luôn luôn học tập, tu dưỡng để hoàn thiện bản thân và việc làm thường xuyên,
việc tu dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn công tác, lao động, học tập. Rèn
luyện ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh như là việc phải rửa mặt hằng
ngày. Vấn đề mấu chốt, quyết định trong giáo dục, rèn luyện đạo đức của người
cán bộ, đảng viên là sự tự giáo dục, tự rèn luyện. Bởi vì cái tốt, cái xấu đều
có trong mỗi con người. Mà học cái tốt thì khó, vì như "người ta leo núi phải vất vả khó nhọc mới lên đến đỉnh. Học cái
xấu thì dễ như ở trên đỉnh chỉ trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu".
Vì thế việc phấn đấu tu dưỡng của người đảng viên kiên trì hằng ngày, để gạt bỏ
những tính xấu như bệnh tham lam, thiếu kỷ luật, gây hại cho Ðảng, cho dân.
Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh sẽ góp phần to lớn trong việc khắc phục chủ nghĩa cá nhân, bệnh
kinh nghiệm, giáo điều, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và là một trong
những giải pháp quan trọng để ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống đang diễn ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện
nay.
Trường Chính trị Trường Chinh với
chức năng là một trường đào tạo cán bộ, lãnh đạo quản lý cho sở, ban, ngành,
huyện và thành phố. Hiện nay nhà trường có 52 đảng viên bao gồm: đảng viên là
giảng viên và đảng viên là cán bộ, nhân viên. Trong những năm vừa qua, một số
đảng viên là cán bộ lãnh đạo, giảng viên có kinh nghiệm giảng dạy của nhà
trường đã về nghỉ chế độ, nên cán bộ, giảng viên là đảng viên chủ yếu ở tuổi
đời còn trẻ, vừa rời ghế ở các trường đại học. Đây là một đội ngũ đảng viên rất
nhiệt tình, năng động, linh hoạt trong công việc, ham học hỏi bắt kịp nhanh với
công nghệ hiện đại, xu thế của thế giới, được đào tạo cơ bản ở các trường đại
học hàng đầu của Việt Nam, đa phần đội ngũ đảng viên đều có học hàm, học vị đáp
ứng được với yêu cầu của một trường đào tạo cán bộ lãnh đạo cho tỉnh Nam Định.
Tuy nhiên đội ngũ đảng viên là cán bộ
trẻ, được trưởng thành trong thời kỳ đất nước mở cửa nền kinh tế thị trường,
hội nhập kinh tế quốc tế nên không thấy được giá trị của thời kỳ khó khăn, gian
khổ mà các thế hệ cha ông đã trải qua. Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho
đội ngũ đảng viên Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định trong giai đoạn
hiện nay, cần thực hiện theo hướng sau:
Thứ nhất,
đối với giảng viên: Luôn tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, bảo vệ
quan điểm, đường lối của Đảng, chống mọi
quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, vượt mọi khó khăn để hoàn thành
nhiệm vụ chính trị. Học tập đạo đức Hồ Chí
Minh trong tiết kiệm thời gian để nghiên cứu, siêng năng học tập trau
dồi chuyên môn, nghiệp vụ nâng cao trình độ để bắt kịp với hội nhập thế giới.
Thứ hai, đối với công tác tham mưu phục vụ: Học tập đạo đức Hồ
Chí Minh trong tiết kiệm của công , cần cù, chịu khó trong công việc để nâng
cao hiệu quả, vì lợi ích của tập thể. Đặt lợi ích của tập thể vì tập thể, không tư lợi, không vì lợi ích cá nhân, không
bè phái, đoàn kết. Làm tốt công tác tham mưu , giúp lãnh đạo đưa ra được đường
lối, chủ trương, định hướng đúng đắn để nâng cao vị thế, tầm quan trọng của nhà
trường trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh.
Thứ ba, đối
với công tác đào tạo, bồi dưỡng và quản lý học viên: Người đảng viên là giảng
viên, giáo viên chủ nhiệm phải công tâm, khách quan, đánh giá học viên cho đúng
người, đúng việc bảo đảm sự công bằng. Công tác phối hợp phải thông suốt, giữa
các bộ phận chức năng khi thực hiện nhiệm vụ chính trị, vì một lợi ích của tập
thể, tránh công, tư lẫn lộn. Chú trọng phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm
lớp đồng thời thực hiện nề nếp về chế độ báo cáo. Đồng thời , bổ sung, hoàn
thiện hệ thống các quy chế làm việc của Đảng ủy, chi ủy về sự lãnh đạo công tác
chuyên môn và các hoạt động khác của nhà trường đảm bảo đúng nguyên tắc, thiết
thực và hiệu quả.
Cần cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ sao cho vừa giữ vững nguyên tắc này,
vừa bảo đảm quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của người đứng đầu các tổ chức
chính quyền với tư cách là người đại diện cho quyền lực của cán bộ đảng viên.
Cần có quy chế về trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu tổ chức về công
tác cán bộ.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả nguyên tắc xây đi đôi với chống, để
kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, vi
phạm nguyên tắc trong cơ quan, đơn vị. Đồng thời tích cực phòng, chống chủ
nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức vì chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy
hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí; là tha hóa về
đạo đức, sa đọa về lối sống, cơ hội, nịnh bợ, chạy theo đồng tiền, chạy theo
chức sắc, danh vị, tranh giành quyền lực, dối trá dẫn đến suy thoái về chính
trị- tư tưởng.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa gần nửa thế kỷ,
nhưng tấm gương của Người để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về đạo đức
của người cách mạng, với tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống
giản dị, ra đi không một chút riêng tư dù việc nhỏ nhất. Nếu mỗi cán bộ, đảng
viên giữ được đạo đức cần kiêm, liêm, chính, chí công vô tư theo tư tưởng của
đạo đức Hồ Chí Minh tức là giữ được cái tâm bất biến thì sẽ đủ sức ứng phó vững
vàng mọi khả biến của đời sống đạo đức- xã hội trước nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế./.
MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
THS. NGUYỄN THỊ THU LAN
Phó Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính - Quản
trị
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của
chủ thể cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính
trị nhất định, đó là hệ thống chính trị. Hay nói cách khác “Hệ thống chính trị
là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau
trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội,
để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ
thể giai cấp cầm quyền”. Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của
giai cấp, Nhà nước và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do
đó hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền.
Ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là chủ thể chân chính của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta
là cơ chế, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến
binh Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân dân được
thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Trong hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa nhà nước và đảng cộng sản là hai thành tố quan
trọng nhất, Đảng đóng vai trò “hạt nhân lãnh đạo” và Nhà nước là “trụ cột” của
hệ thống chính trị.
Mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng cầm quyền là mối
quan hệ vừa mang tính phụ thuộc, vừa mang tính độc lập.
Tính phụ thuộc được xác định bởi vai trò lãnh đạo
và địa vị cầm quyền của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước, định hướng chính trị cho
tổ chức và hoạt động của Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước ở các cấp, các ngành. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là
sự lãnh đạo chính trị, được thực hiện bằng phương thức đã xác định trong Cương
lĩnh của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước có cơ sở về mặt
lịch sử, chính trị tư tưởng và cơ sở pháp lý rõ ràng: Về mặt lịch sử, hơn 80
năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện là lực lượng duy nhất tổ chức vận động, lãnh đạo,
đồng thời là người đi tiên phong, không sợ hy sinh gian khổ trong sự nghiệp
cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc, kháng chiến chống thực dân, đế quốc
xâm lược. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo 30 năm qua
tạo nên vị thế mới của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Vì lẽ đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam xác lập được vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua uy tín của
Đảng và niềm tin của nhân dân.
Về chính trị - tư tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; mục tiêu của
Đảng là xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh". Mục tiêu đó phản ánh chân thực và khách quan khát vọng của đại đa
số quần chúng nhân dân và phù hợp với xu thế phát triển lịch sử.
Về pháp lý, vai trò lãnh đạo của Đảng được quy định tại Điều 4 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam
gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình…”.
Đồng thời, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội còn được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế hoặc điều lệ của các
cơ quan, tổ chức tùy theo mối quan hệ cụ thể. Việc Hiến pháp và các văn bản của
nhà nước quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
và xã hội là điều hoàn toàn phù hợp quyền dân tộc tự quyết, được ghi nhận trong
Hiến chương Liên hợp quốc.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước được thực hiện dưới
những hình thức chủ yếu sau:
- Đảng hoạch định chiến lược và
những mục tiêu cơ bản, những đường lối chính sách phát triển kinh tế, chính trị
cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Việc hoạch định đường lối chiến
lược, đường lối phát triển kinh tế, chính trị, xã hội là hình thức lãnh đạo
quan trọng nhất, thể hiện rõ nhất vai trò lãnh đạo của Đảng. Uy tín của Đảng
phụ thuộc rất nhiều vào hình thức này.
- Đảng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
có phẩm chất, có năng lực để giới thiệu vào các cương vị quan trọng của Nhà
nước. Việc giới thiệu cán bộ của Đảng vào các vị trí như vậy phải được tiến
hành thông qua sự tín nhiệm của Nhà nước, của quần chúng. Đảng không áp đặt các
tổ chức, cơ quan nhà nước phải chấp nhận người mình giới thiệu. Chỉ trên cơ sở
đó Đảng mới thực sự lãnh đạo được hệ thống chính trị thông qua công tác cán bộ.
- Đảng kiểm tra việc thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng thông qua các biện pháp và phương tiện khác
nhau. Thông qua công tác kiểm tra Đảng kịp thời phát hiện những sai lầm, những
thiếu sót trong các chủ trương, chính sách do mình đề ra, khắc phục chúng để
hoàn thiện hơn nữa vai trò lãnh đạo. Công tác kiểm tra của Đảng phải được tiến
hành theo những nguyên tắc của tổ chức Đảng trên cơ sở tôn trọng quyền hạn và
chức năng quản lý của Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước được thực hiện
thông qua các tổ chức cơ sở của Đảng được thành lập trong các cơ quan nhà nước,
đặc biệt là những đảng viên đang giữ những cương vị quan trọng đó. Một nét đặc
trưng trong vai trò lãnh đạo của Đảng là phương pháp lãnh đạo. Đảng là tổ chức
chính trị, phương pháp lãnh đạo của Đảng không phải là phương pháp hành chính
mà là tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục và nêu gương. Tuy nhiên cần
phải nhận thực đúng đắn vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản. Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị một cách toàn diện, tuy nhiên tính toàn diện này hoàn toàn
không có nghĩa là Đảng quyết định tất cả, làm thay tất cả những công việc của
các bộ phận cấu thành khác, mà Đảng vẫn phải chịu sự tác động của pháp luật,
bình đẳng với các bộ phận cấu thành khác của hệ thống chính trị.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có tính độc lập vai trò
quan trọng đối với đảng cộng sản, thể hiện:
-
Nhà nước không chỉ là tổ
chức do Đảng sáng lập, là công cụ của Đảng, mà trong bản chất sâu xa, Nhà nước
là một tổ chức công quyền, với ý nghĩa là một hình thức tổ chức quyền lực của
Nhân dân, do Nhân dân tự tổ chức, hoạt động vì lợi ích của Nhân dân, chịu sự kiểm
tra, giám sát của Nhân dân. Nhà nước tạo ra cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và
hoạt động hợp pháp của Đảng và thừa nhận quyền lãnh đạo của Đảng với Nhà nước
và xã hội.
- Nhà nước là công cụ có hiệu lực nhất và quan trọng
nhất để đảng cộng sản đưa đường lối chính sách của mình vào cuộc sống. Nhà nước
xã hội chủ nghĩa thường xuyên phải thể chế hóa đường lối chính sách của đảng
thành pháp luật, thành những chính sách, quy định cụ thể và tổ chức thực hiện.
Đồng thời thông qua việc thực hiện đường lối chính sách của đảng, nhà nước kiểm
nghiệm tính đúng đắn, sự phù hợp của những đường lối chính sách đó. Từ đó nhà
nước góp ý với đảng trong việc đề ra hoặc điều chỉnh đường lối, chính sách cho
phù hợp.
- Với chức
năng quản lý toàn diện các mặt hoạt động của xã hội, nhà nước thực hiện việc
quản lý các tổ chức đảng, kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật của các
tổ chức đảng và các cá nhân đảng viên.
Nhà
nước xã hội chủ nghĩa luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức đảng
hoạt động. Nhà nước thường xuyên ủng hộ, giúp đỡ về vật chất cũng như về tinh
thần đối với hoạt động của các tổ chức đảng các cấp. Đồng thời nhà nước cũng là
lực lượng bảo vệ, đảm bảo an toàn cho sự tồn tại của đảng trong toàn xã hội.
Như
vậy, Nhà nước và Đảng có mối quan hệ mật thiết. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo
nhưng Đảng không thực hiện quyền lực nhà nước, không làm thay Nhà nước, không
áp đặt nguyên tắc hoạt động của mình cho Nhà nước trái với những quy định của
pháp luật. Đảng thực hiện chức năng lãnh đạo chính trị bằng quyền lực chính trị
theo phương thức được quy định trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng. Quyền lực nhà
nước được quy định trong Hiến pháp và pháp luật do bộ máy nhà nước thực hiện
trên cơ sở phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định trong
điều kiện Nhà nước pháp quyền càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, lấn
sân, bao biện làm thay, áp đặt, mất dân chủ, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của
Đảng và làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Bên cạnh đó không
ngừng xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ./.
QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ “SỰ TIÊU VONG” CỦA NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM
“NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG”
THS. HOÀNG ĐỨC HỢP
Phó
Trưởng khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người từ
khi có giai cấp, vấn đề nhà nước có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, về phương
diện lý luận cũng như về phương diện chính trị thực tiễn. Chính vì vậy, trong
tác phẩm của mình, các nhà kinh điển mácxít đều quan tâm đề cập đến vấn đề nhà
nước. Cùng với “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” do C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết chung, “Phê phán Cương lĩnh Gôta”
của C.Mác, “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”
của Ph.Ăng-ghen, thì tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” của V.I.Lênin là
một tác phẩm kinh điển xuất sắc của học thuyết mácxít về nhà nước, là kim chỉ
nam cho chúng ta học tập và nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác về nhà nước,
đồng thời là cơ sở lý luận nền tảng để Đảng và nhân dân ta xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tác phẩm Nhà nước và
cách mạng, được ra đời trong hoàn cảnh trước ngày nổ ra Cách mạng Tháng
Mười Nga (khoảng từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1917). Để tránh sự bắt bớ của chính
phủ lâm thời lúc bấy giờ, V.I.Lênin phải ẩn náu trong nhà một người công nhân ở
ga Ra-đơ-lít trên biên giới Nga - Phần
Lan, về sau lại ẩn náu trong túp lều tranh phía sau hồ Ra-đơ-lít để hoạt động và viết tác phẩm này. Trong
tác phẩm, V.I.Lênin không những đã khôi phục được quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen về nhà nước mà còn phát triển một bước học thuyết của chủ nghĩa Mác
về nhà nước và chuyên chính vô sản. Một trong những nội dung quan trọng thể
hiện rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác về nhà nước đó là quan điểm của V.I.Lênin
về vấn đề “nhà nước tự tiêu vong” và những cơ sở kinh tế để “nhà nước tự tiêu
vong”. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận quyết định để xây dựng nhà nước vô sản
trong thực tiễn.
Kế thừa quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác về vai trò lịch sử và ý nghĩa của nhà nước, V.I.Lênin khẳng
định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào, mà về mặt khách quan,
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và
ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là
không thể điều hòa được”.
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen,
V.I.Lênin tiếp tục khẳng định rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử,
sự tồn tại và tiêu vong của nó là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể; “nhà
nước chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp” và “bất cứ nhà
nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác”. Tuy
nhiên, theo Ph.Ăng-ghen, trong tác phẩm phổ quát nhất của mình đã viết: “như
vậy thì trước đây không phải lúc nào cũng có nhà nước. Đã từng có những xã hội
không cần đến nhà nước và tuyệt đối không có một ý niệm gì về nhà nước và về
quyền lực nhà nước cả. Khi kinh tế phát triển đến một trình độ nào đó, tất
nhiên là gắn liền với tình trạng xã hội phân chia thành giai cấp, thì sự phận
chia ấy khiến cho nhà nước trở thành một tất yếu. Hiện nay, chúng ta đương
nhiên tiến nhanh đến một trình độ phát triển sản xuất khiến cho sự tồn tại của
các giai cấp ấy chẳng những không còn là một tất yếu nữa, mà lại trực tiếp trở
ngại cho sản xuất. Các giai cấp nhất định sẽ mất đi, cũng như ngày trước chúng
nhất định phải xuất hiện. Giai cấp mất đi, thì nhà nước nhất định phải mất
theo. Xã hội sẽ tổ chức lại sản xuất trên cơ sở liên hợp tự do và bình đẳng
giữa những người sản xuất và sẽ xếp tất cả bộ máy nhà nước vào chỗ giành riêng
cho nó lúc ấy: vào viện bảo tàng vật cổ, bên cạnh cái xa quay sợi và chiếc rìu
bằng đồng”.
Quan điểm này cho chúng ta thấy rằng, nhà nước không
phải bị “xóa bỏ”, mà nó “tự tiêu vong”
theo đúng quy luật phát triển của lịch sử. Điểm quan trọng ở đây là
trong tác phẩm của mình, V.I.Lênin đã phân tích rất rõ và lưu ý chúng ta rằng,
phải hiểu đúng bản chất của “sự tự tiêu vong”, để tránh rơi vào quan điểm xuyên
tạc của bọn chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vô chính phủ, cắt xén, xuyên tạc chủ
nghĩa Mác, xóa mờ cách mạng, nếu không muốn nói là phủ nhận cách mạng vô sản để
“thủ tiêu” nhà nước của giai cấp vô sản, trong giai đoạn mà nhà nước vô sản tất
yếu vẫn phải tồn tại để trấn áp lực lượng phản cách mạng, trấn áp bọn phá hoại
trật tự xã hội mới và bảo vệ tổ quốc, “lãnh đạo quảng đại quần chúng nhân dân,
nông dân, tiểu tư sản, nửa vô sản trong công cuộc tổ chức nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa”. V.I.Lênin
viết: “Sự thật ở đây Ph.Ăng-ghen nói cách mạng vô sản “thủ tiêu nhà nước của
giai cấp tư sản, còn khi nói về “sự tiêu vong” thì là nói về tàn dư của nhà
nước vô sản, sau cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo Ph.Ăng-ghen, nhà nước tư sản
không thể tự “tiêu vong”, nó bị giai cấp vô sản “thủ tiêu” trong cách mạng.
Tiêu vong sau cuộc cách mạng ấy là nhà nước vô sản hay là nửa nhà nước”.
Như vậy, luận điểm về “sự tiêu vong” của nhà nước ở
đây được V.I.Lênin giải thích rất rõ, đó là “sự tiêu vong” của nhà nước vô sản,
với tư cách là một nhà nước “nửa nhà nước”, nhà nước không nguyên nghĩa. Nhà
nước với tư cách là công cụ thống trị chính trị giai cấp, là “một cơ quan áp
bức của giai cấp này đối với giai cấp khác” đã bị “thủ tiêu” trong cách mạng vô
sản, để cho ra đời một nhà nước mà chức năng chủ yếu của nó không phải là bạo
lực trấn áp mà là tổ chức xã hội. V.I.Lênin chỉ rõ rằng: “Nhà nước là một “lực lượng đặc biệt để trấn áp”. Định
nghĩa tài tình và cực kỳ sâu sắc ấy của Ph.Ăng-ghen được nêu ở đây hết sức rõ. Từ
định nghĩa đó rút ra kết luận là “lực
lượng đặc biệt để trấn áp” ấy của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản,
của một nhóm người giàu có đối với hàng triệu người lao động, phải được thay
thế bằng một “lực lượng đặc biệt để trấn
áp” của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản (chuyên chính vô sản). “Thủ tiêu nhà nước với tư cách là nhà nước” là
ở chỗ đó. Hành động nhân danh xã hội nắm lấy tư liệu sản xuất, cũng là ở chỗ
đó. Lẽ cố nhiên, sự thay thế “một lực
lượng đặc biệt” (lực lượng của giai cấp tư sản) bằng “một lực lượng đặc biệt” khác (lực lượng của giai cấp vô sản) theo
cách như vậy tuyệt nhiên không thể diễn ra theo cách tự “tiêu vong” được”. “Chỉ
có các mạng mới có thể “thủ tiêu” được
nhà nước tư sản. Còn nhà nước nói chung, tức là chế độ dân chủ triệt để nhất,
thì chỉ có thể tự “tiêu vong” mà
thôi”.
Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về tính
tất yếu của cuộc cách mạng vô sản, khi V.I.Lênin đề cập đến vấn đề “nhà nước tự
tiêu vong”, ông cũng đề cập luôn sự cần thiết phải “thủ tiêu” nhà nước tư sản
bằng “cách mạng bạo lực” để thiết lập một nhà nước mới – nhà nước vô sản, “nhà
nước nửa nhà nước” để nó “tự tiêu vong”. V.I.Lênin viết: “Nhà nước tư sản bị
thay thế bởi nhà nước vô sản (chuyên chính vô sản) không thể bằng con đường
“tiêu vong” được, mà chỉ có thể, theo quy luật chung, bằng một cuộc cách mạng
bạo lực thôi”. Không có cách mạng bạo lực thì không thể thay
thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được. Việc thủ tiêu nhà nước vô sản,
nghĩa là việc thủ tiêu mọi nhà nước dân chủ chỉ có thể thực hiện bằng con đường
“tiêu vong” mà thôi.
Trong tác phẩm, V.I.Lênin cũng đề cập đến vấn đề “Lấy
cái gì để thay thế bộ máy nhà nước đã bị phá hủy?”, ông viết: “Một khi đa số
nhân dân đã tự mình trấn áp những kẻ áp bức mình, thì không còn cần phải có một “lực lượng đặc biệt” để trấn áp nữa! Theo
nghĩa đó, nhà nước bắt đầu tiêu vong. Đa số nhân dân tự mình có thể trực tiếp
hoàn thành những nhiệm vụ ấy, chứ không cần đến những cơ quan đặc biệt của một
thiểu số có đặc quyền (các viên chức có đặc quyền, các viên chỉ huy quân đội
thường trực) và những chức năng của chính quyền nhà nước càng do toàn dân làm
lấy, thì chính quyền đó lại càng trở nên ít cần thiết hơn”.
Vậy, cơ sở xã hội để nhà nước tự tiêu vong chính là khả năng tự quản lý, tự tổ
chức, tự phục vụ của nhân dân khi đạt đến một trình độ nhất định. Bên cạnh đó,
V.I.Lênin cũng chỉ rõ những cơ sở kinh tế để nhà nước tiêu vong, trong giai
đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản. Cơ sở kinh tế của nhà nước tiêu vong là vấn đề
liên hệ giữa nhà nước tiêu vong và chủ nghĩa cộng sản. Đây là một trong những
nội dung chủ yếu của tác phẩm Nhà nước và cách mạng. Khi giai cấp vô sản giành được chính quyền,
thiết lập nền chuyên chính vô sản, trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, xóa bỏ chế độ bóc lột lao động và áp bức, sự bất bình đẳng trong
lao động và phân phối cũng không còn, thì việc duy trì một bộ máy với tư cách
là một “lực lượng đặc biệt” để trấn áp sẽ không còn cần thiết.
Khi nghiên cứu về quan điểm của V.I.Lênin về “sự tiêu
vong” của nhà nước có thể thấy rằng, tư tưởng đó được hình thành trên cơ sở sự
vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về nhà nước vào điều kiện cụ thể
của nước Nga và tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XX. Bên cạnh việc làm
sáng tỏ những quan điểm căn bản của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về nhà nước, đem lại
vũ khí lý luận sắc bén cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, giành lấy, tổ
chức và thực thi quyền lực nhà nước, cũng như đấu tranh chống lại mọi âm mưu
hòng xuyên tạc, bẻ cong và nhằm bác bỏ lý luận mácxít về nhà nước, thì những tư
tưởng về “sự tiêu vong” của nhà nước còn chứa đựng nhiều giá trị có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hiện nay.
Ở Việt Nam, cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, do Đảng
Cộng sản tổ chức và lãnh đạo, mang bản chất của cuộc cách mạng vô sản, cho ra
đời nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á, lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam có một nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhà nước của đa số.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mang bản chất của một nhà nước vô
sản, chính là sự khởi đầu cho quá trình “nhà nước tự tiêu vong” theo quan điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Với bản chất chuyên chính vô sản của nhà nước xã hội
chủ nghĩa, trong quá trình xây dựng và phát triển, nhà nước xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tất yếu sẽ dần dần trở thành “nhà nước nửa nhà nước” theo đúng quy
luật. Chức năng cơ bản của nhà nước nói chung là bạo lực trấn áp được thay thế
bằng chức năng tổ chức và phục vụ là chủ yếu. Ngày nay, trong tư duy, nhận thức
của giới chính trị tiến bộ nước ta cũng đã có sự thay đổi phát triển, thông qua
cách ứng xử, cũng như trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quan điểm
xây dựng một “chính phủ kiến tạo”, “nhà
nước phục vụ” bắt đầu đã được nhắc tới trong đường lối xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa là một quá trình, hơn nữa đối với nước ta đó là quá trình lâu
dài, khó khăn, phức tạp, do đặc điểm của thời kỳ quá độ từ một xã hội tiền tư
bản, bỏ qua chế độ tư bản, việc xây dựng nhà nước phải gắn liền với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để thành
công, chúng ta vừa phải đứng vững trên lập trường lý luận Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, vừa phải kế thừa được những thành quả xây dựng nhà nước pháp quyền
đã có trên thế giới, vừa phải xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hiện
nay, việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam nhất thiết phải coi trọng việc
luật hóa quyền lực của nhân dân để phục vụ nhân dân gắn với quá trình thực thi
hiệu quả pháp luật đó trong thực tiễn. Chủ trương xây dựng một “nhà nước kiến
tạo và phục vụ” để tiến tới hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
cũng chính là thể hiện quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin về vấn đề “tự tiêu
vong” của nhà nước theo đúng quy luật khách quan của lịch sử./.
HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG TRỌNG DÂN, VÌ DÂN
CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Ở CẤP CƠ SỞ HIỆN NAY
TS.
HỒ CÔNG ĐỨC
Trường
Đại học Lương Thế Vinh
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
hai chủ thể chính trị quan trọng trong hệ thống chính trị ở Việt Nam. Trong quan
hệ với nhân dân, Đảng và Nhà nước có vai trò lãnh đạo, quản lý. Song bản chất
của mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân là Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý nhưng nhân dân làm chủ vì nhân dân là chủ. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý không có mục đích nào khác là để bảo đảm quyền và phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân. Trọng dân, vì dân là nguyên tắc trong họat động lãnh đạo, quản lý
của Đảng, Nhà nước.
Quan điểm trọng dân, vì dân, hết lòng phụng sự nhân dân, quan tâm
đến lợi ích của nhân dân là một trong những tư tưởng lớn, mang đậm tính nhân
văn, tính nhân đạo sâu sắc của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó, được thể hiện qua
phong cách của Người trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng, lãnh đạo cách mạng.
1.
Trọng dân, vì dân trong tư tưởng và hoạt động của Hồ Chí Minh
Một
là, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Trên lập trường duy
vật biện chứng chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, chứ không phải của riêng một hai người. Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn coi trọng sức mạnh của nhân dân, luôn tâm niệm lấy dân làm gốc. Người cho
rằng, “…trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Hồ Chí Minh luôn biết dựa vào sức
mạnh của nhân dân trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Người nhấn
mạnh “chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân”, đấy là nguyên tắc tối
cao. Nguyên tắc này vừa là sự nối tiếp truyền thống của dân tộc “nước lấy dân
làm gốc”, vừa là sự quán triệt sâu
sắc quan điểm của chủ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong hoàn cảnh
đất nước khó khăn, "ngàn cân treo sợi tóc”, ngân quỹ quốc gia còn lại rất
ít, để làm cách mạng, xây dựng đất nước chỉ còn cách duy nhất là dựa vào dân,
tin vào dân, tin vào lực lượng quần chúng nhân dân. Người đã từng nói rằng, “dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Vì vậy, Hồ Chí
Minh đã thường xuyên giáo dục cán bộ phải làm tốt công tác vận động nhân dân để
chung sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ đất nước.
Bên cạnh việc trọng dụng sức mạnh của nhân dân, Hồ Chí
Minh còn biết trọng dụng nhân tài, xem hiền tài là nguyên khí quốc gia. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi “Tìm người tài đức” đăng báo Cứu quốc rằng: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số
20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức… các địa phương phải lập
tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi
dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”.
Chính nhờ tấm lòng rộng mở, trọng dụng nhân tài, được thừa kế từ truyền
thống lâu đời của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi được nhiều tầng
lớp nhân sĩ, trí thức như Tôn Thất Tùng, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đại Nghĩa, v.v. đem hết sức mình phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng trong điều kiện hoàn cảnh hết sức khó khăn của đất nước.
Thứ hai, sát nhân dân, tôn trọng và tiếp thu ý kiến, học hỏi nhân dân. Trong quan
niệm của Hồ Chí Minh: thực hành dân chủ, luôn lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhân dân
là trọng dân, vì dân. Đảng, Nhà nước là đại diện quyền và lợi ích của nhân dân,
hoạt động là để phục vụ nhân dân thì phải biết tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân thông qua các tổ chức đoàn
thể xã hội đại diện, hoặc lắng nghe trực tiếp từ nhân dân. Những vấn đề liên
quan đến đường lối, chủ trương, chính sách có ảnh hưởng đến sinh mệnh, cuộc
sống hàng triệu người dân, nếu không tiếp thu, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân, thì sẽ không tránh khỏi những hạn chế sai lầm trong việc ban
hành các chính sách và khó thực thi trong thực tiễn đời sống, ảnh hưởng đến quá
trình phát triển đất nước là điều không thể tránh khỏi.
Bên cạnh đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người luôn quan tâm đến vấn đề dân chủ. Người cho rằng,
phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng nhân dân. Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân... Nói
tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Vì vậy, phải thực hiện
một nền dân chủ của nhân dân, đảm bảo lợi ích chính đáng của dân, dân chủ thực
sự cho dân thì mới tạo ra lòng tin vào sự lãnh đạo của đội ngũ cán bộ, đảng
viên hiện nay.
Thứ
ba, trọng dân, vì dân phải luôn coi trọng lợi ích của nhân dân, chăm lo đời
sống của nhân dân. Trong quá trình
hoạt động cách mạng của mình Hồ Chí Minh luôn coi trọng lợi ích của nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của người
lao động lên trên. Người khẳng định: Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Theo Người, vấn đề quan trọng bậc nhất là vấn đề lợi
ích của người dân. Nếu lãnh đạo mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, sẽ
làm cho dân tin Ðảng, tin chế độ. Nguyên tắc chung của mọi chủ trương, chính
sách là luôn vì lợi ích của nhân dân. Muốn mang lại lợi ích thiết thực cho nhân
dân, trước hết, phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, phải
hướng vào dân và nhằm nâng cao đời sống của nhân dân. Trong Di chúc, Người
viết: Ðảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, mang lại lợi ích thiết thực cho
nhân dân, vì nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của
Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là gánh
vác việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức
tránh”. Trách nhiệm của Đảng, Chính phủ đối với cuộc sống
hàng ngày của dân: “ là phải
hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có
lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ
có lỗi...”.
Người cũng sớm cảnh báo căn bệnh xa dân, thậm chí hành dân của cán bộ, mà
Người gọi là “lên mặt làm quan cách mạng”, coi đây là nguy cơ đối với vai trò
lãnh đạo của Đảng. Trước lúc đi xa, Người đã căn dặn toàn Đảng rằng: Đảng coi
việc “làm đầy tớ” của nhân dân, phục vụ nhân dân, chăm lo cuộc sống vật chất,
tinh thần của nhân dân là trách nhiệm, là vinh dự và niềm hạnh phúc. Sự quan
tâm chăm lo đời sống cho nhân dân của Người không chỉ được biểu hiện ở những
quan điểm, những chính sách mà còn thể hiện ở những việc làm cụ thể đối với mọi
tầng lớp nhân dân.
Chúng ta thấy
rằng, cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vì dân, vì nước, Người luôn đặt
lợi ích của nhân dân là trên hết. Người hy sinh cả cuộc đời cho nhân dân, mà
không màng danh lợi gì cho cá nhân, cho gia đình. Khi Người ra đi tài sản chỉ
là mấy đôi dép cao su, mấy đôi giày, mấy bộ quần áo Kaki sờn cũ, như nhà thơ
Thu Bồn đã viết: “Hành trang Bác chẳng có gì/ Một đôi dép mỏng đã lỳ chông
gai”. Như vậy, tư tưởng và phong cách trọng
dân, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện thống nhất từ nhận thức đến
hành động và xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
2. Một số ý nghĩa
của việc học tập và làm theo tư tưởng, phong cách trọng dân, vì dân của Hồ Chí
Minh xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta hiện nay
Nâng cao năng
lực, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị thực sự phục vụ nhân
dân, xây dựng “chính phủ kiến tạo và hành động” việc học tập và làm theo tư
tưởng, phong cách trọng dân, vì dân của Hồ Chí Minh là nhiệm vụ trước mắt và
lâu dài.
Cấp xã (xã,
phường, thị trấn) là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị bốn cấp ở nước ta,
nhưng lại có vai trò quan trọng. Đây là cấp gần và sát với nhân dân nhất, là
cấp trực tiếp tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và cấp tỉnh. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã của tỉnh Nam
Định đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thành công
các chương trình kinh tế - xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở là yêu cầu khách
quan và cấp thiết. Vận dụng tư tưởng “trọng dân, vì dân” của Hồ Chí Minh trong hoạt động của hệ thống chính trị
là một giải pháp quan trọng.
Một là,
cấp ủy và chính quyền quan tâm công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán
bộ, công chức về sức mạnh của quần chúng nhân dân, vai trò của công tác vận
động quần chúng.
Trong những năm
tới, các cấp ủy đảng tiếp tục quan tâm tới công tác đào tạo trình độ lý luận
chính trị cho cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức lý luận và nhận thức về
tinh thần, trách nhiệm phục vụ nhân dân trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Đồng
thời, thực hiện công tác nắm bắt tư tưởng cán bộ, đảng viên, công chức nhằm phát hiện kip thời những
biểu hiện lệch lạc về nhân thức chính trị, lập trường tư tưởng và lối sống để
có biện pháp chỉnh đốn, ngăn chặn.
Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối quan
hệ với nhân dân trong lãnh đạo của cấp ủy. Cấp ủy đảng thực hiện các biện pháp
tăng cường thực hành dân chủ trong quá trình lãnh đạo để nhân dân được biết và
tham gia đóng góp ý kiến vào hoạt động lãnh đạo. Phát huy vai trò của các Bí
thư chi bộ thôn, xóm, tổ dân phố trong việc tuyên truyền chủ trương, nghị quyết
của cấp ủy. Đồng thời, qua họ để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến của nhân
dân trước khi xây dựng và ban hành chủ trương, nghị quyết, đặc biệt là đối với
những vấn đề lớn liên quan đến quyền, lợi ích của nhân dân.
Tăng cường sự
lãnh đạo và thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để nắm bắt
những vướng mắc, phát sinh trong thực tiễn triển khai các chủ trương, nghị
quyết để kịp thời điều chỉnh.
Ba là, thực hiện hiệu quả pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân trong quản lý, điều hành của chính quyền. Tiếp
tục thực hiện nghiêm túc các nội dung của pháp lệnh dân chủ cơ sở. Thực hiện
công khai, minh bạch kế hoạch, dự án và các quy trình quản lý của chính quyền
bằng các hình thức để nhân dân được biết. Thực hiện nghiêm nội dung nhân dân
được biết, được bàn, được đóng góp kiến đã quy định trong pháp lệnh.
Trong công tác
đánh giá cán bộ, cần phải có cơ chế để nhân dân tham gia vào đánh giá chất
lượng cán bộ. Đối với công tác xử lý vi phạm của cán bộ phải được công khai kết
quả trước nhân dân.
Bốn là, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
cấp xã, thực hiện nghiêm túc và hiệu quả hoạt động phản biện xã hội.
Như vậy, việc học tập và làm theo phong
cách của Hồ Chí Minh không chỉ góp phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ
đảng viên của tỉnh Nam Định hiện nay, mà còn góp phần xây dựng lối sống, đạo
đức, tác phong làm việc một cách khoa học, bài bản vì lợi ích chung của nhân
dân, góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển bền vững./.
HỌC TẬP
PHONG CÁCH TƯ DUY
CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỂ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIẢNG DẠY
TẠI
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
CN. NGUYỄN THỊ HUYỀN
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
Việt Nam,
người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Bác đã để lại
cho Đảng, nhân dân ta một di sản tư tưởng, tài sản tinh thần vô cùng to lớn và
quý báu. Việc nghiên cứu, học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có
ý nghĩa to lớn đồng thời là một nhiệm vụ quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân ta
cần thực hiện, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang bước vào thời
kỳ đổi mới, hội nhập gắn với phát triển nền kinh tế tri thức.
Hệ thống phong cách Hồ Chí Minh là một
chỉnh thể, bắt đầu từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến hoạt động thực tiễn
(phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử) và cuối cùng là
sinh hoạt thường ngày (phong cách
sinh hoạt). Trong đó, phong cách tư duy có vai trò quan trọng nhất, bởi
có suy nghĩa đúng, tư duy đúng mới tìm ra phương thức, cách làm đúng. Phong
cách tư duy Hồ Chí Minh rất đặc sắc, mang đậm dấu ấn riêng; tư duy đó được hình
thành từ con người có đức dày, tâm trong, trí sáng, tầm cao trí tuệ, nhân cách,
ý chí lớn lao, hoạt động phong phú, đa dạng trên không gian, thời gian rộng
lớn, với nhiều lĩnh vực, vị trí công việc khác nhau, nhưng phong cách tư duy Hồ
Chí Minh là biểu hiện đặc sắc của sự độc lập, tự chủ, sáng tạo, năng lực hoạt động
thực tiễn của Hồ Chí Minh là một tư duy “hoạt lực”.
Thứ
nhất, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo:
Một trong những nét đặc sắc của phong cách tư duy Hồ
Chí Minh đó là tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Nó thể hiện ở việc làm
chủ suy nghĩ, làm chủ bản thân, tự thấy trách nhiệm của mình trước đất nước,
dân tộc. Sáng tạo là sẵn sàng từ bỏ những cái cũ, cái đã đúng trước kia nhưng
nay không còn phù hợp và được thực tiễn kiểm nghiệm là không còn đúng, đã lạc
hậu, lỗi thời. Người đã tìm tòi, đề xuất những cái mới có thể trả lời và đáp
ứng được yêu cầu do hoàn cảnh lịch sử đặt ra. Cái mới có bao hàm những giá trị
của cái cũ nhưng lại vượt lên trên cái cũ, bổ sung thêm những giá trị mới. Cái
mới ở Hồ Chí Minh là cái phù hợp với quy luật khách quan của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển chung của
xã hội; cũng chính tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo mà Người đã xây dựng
một hệ thống lý luận phù hợp với cách mạng Việt Nam.
Những biểu hiện của tư duy độc lập, tự chủ của Hồ Chí
Minh được bộc lộ ngay từ khi Người ở trạc tuổi 13, lần đầu tiếp xúc với khẩu
hiệu Tự do - bình đẳng - bác ái, Người đã đặt câu hỏi sự thật ẩn dấu đằng sau
khẩu hiệu này là gì? Trong khi thực tế, Người chứng kiến những cuộc xét xử giữa
người Việt và người Pháp, bao giờ người Pháp cũng có lý, cũng thắng kiện cho dù
tên đó có ăn cướp hay giết người. Sau này, khi lựa chọn con đường cứu nước, mặc
dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng
Người không lựa chọn con đường cứu nước của các bậc tiền bối, Người đã chủ động
tìm cho mình hướng đi mới, đó là sang Phương Tây. Tư duy độc lập ấy đã khiến
cho anh Nguyễn ngay từ khi đặt chân lên đất Pháp đã phát hiện ra được rằng có
hai nước Pháp: một nước Pháp giàu có của bọn tư bản đế quốc thực dân và một
nước Pháp của nhân dân lao động - họ có thể là bạn của ta. Đến nước Mỹ Người
không chỉ nhìn thấy ánh sáng trên đầu nữ thần tự do, mà còn phát hiện ra cuộc
sống khổ cực của người dân lao động Mỹ, sự phân biệt chủng tộc đối với những
người dân da màu, v.v.
Thứ hai,
phong cách tư duy thiết thực, gắn với thực tiễn đất nước và thời đại:
Chính tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo đã làm cho suy
nghĩ của Người nhanh chóng có sự khác biệt, tạo ra bước nhảy vọt khi Người tiếp
thu chủ nghĩa Mác- Lênin. Vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã có những phát
triển, sáng tạo rất quan trọng về chất, bổ sung vào chủ nghĩa Mác- Lênin những
dữ liệu dân tộc học mà thời Mác, thời Lênin không có, tất cả đều xuất phát và
phục vụ cho thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Về cách mạng giải phóng dân tộc: Người đã đưa ra luận
điểm “cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không hoàn toàn phụ
thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc”.
Người nói: “mọi sinh lực và sức sống của tư bản đế quốc nằm ở các dân tộc thuộc địa, vì thế nếu coi thường cách
mạng thuộc địa là “đánh rắn đằng đuôi”.
Luận điểm này đã khẳng định vai trò cách mạng của các nước thuộc địa, là động
lực để các dân tộc thuộc địa tự đứng lên giải phóng cho dân tộc mình.
Về thành lập Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phảm
của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Đó là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam với
việc thêm yếu tố thứ ba - phong trào yêu nước; điều này vừa thể hiện thực tế
của xã hội Việt Nam, truyền thống yêu nước của nhân dân ta đồng thời quy tụ
được tất cả các lực lượng cách mạng trong xã hội tạo nên sức mạnh tổng hợp.
v.v.
Thứ ba, phong
cách tư duy mở và có tính dự báo:
Tư duy của Hồ Chí Minh là tư duy mở, bởi Người không
chấp nhận những gì có tính khuôn mẫu, áp đặt và có sẵn. Đó là tư duy luôn vận
động, phát triển cùng thực tiễn, không coi bất cứ nguyên lý, học thuyết nào là
đóng, đã hoàn tất; Người luôn hướng tư duy của mình ra bên ngoài để học hỏi và
phát triển trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị tích cực, phù hợp của các
học thuyết lý luận trước đó. Chính nhờ sự kế thừa và phát triển đó nên Hồ Chí
Minh đã nắm bắt được cái mới, cái hợp quy luật và đã tìm ra quy luật vận động
của các sự vật hiện tượng. Tư duy độc lập tự chủ sáng tạo của Hồ Chí Minh còn
được thể hiện trong các tiên đoán của Người. Năm 1942, khi viết Lịch sử nước ta, Người đã dự báo: “1945, Việt Nam độc lập”. Năm 1960, trong Diễn văn mừng lễ Quốc khánh, Người đã
viết: “… Toàn dân ta đoàn kết nhất trí,
bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất,
Bắc – Nam
sum họp một nhà”. Cuối năm 1967, khi làm
việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không Không quân, Bác đã dự báo rằng:
“Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52
ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua”. Từ kinh nghiệm ở Triều Tiên,
trước khi thua, Mỹ đã ném bom hủy diệt Bình Nhưỡng, Bác đã dự báo: “Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó
chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”...
Những dự đoán này là sự kết hợp của tư duy độc lập tự
chủ sáng tạo, với tầm nhìn xa trông rộng, bao quát, vốn kiến thức uyên thâm,
trình độ văn hóa đỉnh cao với phương thức tự học là chủ yếu. Đó là sự kết hợp
của con người vừa hoạt động thực tiễn, vừa tự học, vừa tổng kết kinh nghiệm để
từng bước tiến lên đỉnh cao của trí tuệ, của văn hóa để từ một người đi tìm
đường cứu nước trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc, từ một người yêu nước
trở thành người cộng sản, người anh hùng giải phóng dân tộc, một nhà văn hóa
lớn.
Với phong cách tư duy như vậy, Hồ Chí Minh đã nhận
thức và giải quyết triệt để những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng
Việt Nam
đặt ra đầu thế kỷ XX. Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh để nâng cao chất
lượng giảng dạy tại Trường Chính trị Trường Chinh đòi hỏi mỗi giảng viên phải:
Một là, giảng
viên cần tích cực, chủ động, sáng tạo trong công tác soạn, giảng:
Trong thời gian vừa qua bộ giáo trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính đã được chỉnh sửa, bổ sung, tuy nhiên bộ giáo trình
còn bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy, trong quá trình soạn, giảng chúng ta lấy giáo
trình làm khung nhưng không nên máy móc, dập khuôn y nguyên giáo trình mà đòi
hỏi mỗi giảng viên khi soạn, giảng cần nêu cao tinh thần độc lập, sáng tạo, chủ
động lựa chọn những nội dung thiết thực, phù hợp trong từng bài soạn. Bên cạnh
đó, với mỗi lớp đối tượng học viên, giảng viên nên có những giáo án xác định cụ
thể nội dung trọng tâm, kế hoạch bài giảng dạy và kết hợp các phương pháp giảng
dạy tích cực khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Hai là, gắn
bài giảng với thực tiễn, nội dung thiết thực với điều kiện và yêu cầu công việc
của học viên:
Để những bài giảng lý luận không còn khô khan, cứng
nhắc, có thể lôi cuốn được học viên trong buổi học, đòi hỏi bài giảng phải gắn
lý luận với thực tiễn, đưa vào bài giảng những ví dụ sinh động, hấp dẫn, tránh
tình trạng giảng viên chỉ giảng lý luận dẫn đến nặng lý luận, lý thuyết suông,
không thuyết phục. Để làm được điều này đòi hỏi các giảng viên phải có những
chuyến đi thực tế hiệu quả, phải dày công tìm tòi, nghiên cứu trong thực tiễn,
lấy thực tiễn chứng minh cho những vấn đề của bài giảng, v.v. làm thay đổi suy
nghĩ học chính trị vừa khó, vừa khô. Ví dụ với các môn mang tính nghiệp vụ và
kỹ năng, thời gian trên lớp ít, mà thực tế rất nhiều kỹ năng và nghiệp vụ cần
trao đổi, trang bị cho học viên. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi giảng viên
cần đưa ra những tình huống cụ thể gắn với nội dung lý luận, mời học viên tham
gia giải quyết tình huống, giúp cho tiết học không nhàm chán, mặt khác khơi dậy
tinh thần tự học, ham học, cách tư duy mở và sáng tạo cho học viên.
Ba là, gắn
việc rèn luyện, học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh với đánh giá kết quả hoàn
thành nhiệm vụ cuối năm của mỗi giảng viên:
Khi chúng ta triển khai học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì đòi hỏi cần có kết quả đánh giá, đó là khen
thưởng, biểu dương, nhắc nhở hay phê bình đối với cá nhân và tập thể. Đối với
giảng viên cần gắn thêm tiêu chí học tập phong cách tư duy của Hồ Chí Minh để
đánh giá chất lượng, mức độ hoàn thành nhiệm vụ cuối năm; đây chính là động lực
trực tiếp để thúc đẩy cuộc học tập đạt kết quả cao hơn. Do vậy, phải “Lấy kết
quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong
những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hàng
năm”.
Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh cho giảng viên
của trường hiện nay là việc làm có ý nghĩa thiết thực, trực tiếp nâng cao nhận
thức về những giá trị to lớn trong tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người nói
chung và phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo nói riêng nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ của
trường đó là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, quản lý ở cơ sở./.
NHỮNG BIỂU HIỆN MỚI CỦA NGUYÊN TẮC
“TẤT CẢ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC THUỘC VỀ NHÂN DÂN”
TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013
THS. HỒ
THỊ LÝ
Giảng viên khoa Nhà nước và Pháp luật
Hiến
pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc hội biểu quyết thông qua ngày 28/11/2013 (gọi tắt là Hiến pháp năm
2013) là bản Hiến pháp thứ 5 trong lịch sử lập hiến của Việt Nam tính từ
Hiến pháp năm 1946. Việc ban hành Hiến pháp năm 2013 là một dấu mốc mới trong
tiến trình phát triển tư tưởng lập hiến của nước nhà trên cơ sở kế thừa thành
tựu lập hiến của gần 70 năm trước đó, phù hợp yêu cầu đổi mới đất nước trong
giai đoạn hiện nay. Một trong những nội dung quan trọng hàng đầu của Hiến pháp
năm 2013 là sự thể hiện sâu sắc hơn nữa bản chất “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”.
"Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" đã được trang trọng ghi nhận tại
Ðiều 2 Hiến pháp 2013. Ðây là sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Ðảng và Nhà
nước ta về việc đề cao chủ quyền nhân dân, khẳng định ở "Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
do Nhân dân làm chủ" (Ðiều 2). Tuy nhiên, so với các Hiến pháp trước đây,
Hiến pháp sửa đổi có những nội dung mới, thể hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn
về vấn đề "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân".
Các bản Hiến pháp trước đây
cũng quy định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” nhưng quyền lực đó được thực hiện thông qua Quốc hội. Với nhận
thức rằng, Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhưng vì không thực hiện
được quyền lực nhà nước một cách trực tiếp nên đã trao toàn bộ quyền lực nhà
nước của mình cho Quốc hội. Quốc hội được Hiến pháp năm 1980 xác định là cơ
quan có toàn quyền. Ngoài 15 nhiệm vụ và quyền hạn quy định ở Điều 83, Hiến
pháp 1980 còn quy định “Quốc hội có thể định cho mình
những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết” (Điều 83). Đến Hiến pháp năm 1992, Điều 84 quy định Quốc hội chỉ
có 14 nhiệm vụ quyền hạn (không còn là một Quốc hội toàn quyền như Hiến pháp
năm 1980), nhưng Điều 6 Hiến pháp lại quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng Nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyên vọng của Nhân dân…”. Như vậy, Quốc hội vẫn là Quốc hội toàn quyền trong Hiến pháp năm
1992 bởi Nhân dân không thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ
trực tiếp mà chỉ bằng hình thức dân chủ đại diện. Hơn nữa, “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” (Điều
83 Hiến pháp năm 1992). Với quy định này đã không đề cao được trách nhiệm của
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chưa thể hiện rõ vai trò dân chủ trực
tiếp của Nhân dân trong tham gia xây dựng, đánh giá chính sách, pháp luật. Việc
quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp dễ dẫn đến
phủ nhận tính độc lập tương đối giữa các quyền, hạn chế tính năng động, hiệu
quả và trách nhiệm của mỗi quyền, thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan nhà nước. Nhân dân và xã hội không có cơ sở để đánh giá chất lượng
hoạt động của quyền lực nhà nước. Do vậy, trong điều kiện dân chủ và pháp quyền
XHCN, cần xây dựng cơ chế phát huy đầy đủ vai trò của quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân, gạt bỏ mọi nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền lực
nhà nước của Nhân dân từ phía các cơ quan nhà nước, kể cả Quốc hội.
Hiến pháp 2013 với những bổ sung, sửa đổi phù hợp với
tình hình mới đã thể hiện rất rõ nguyên tắc: “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân”. Trước
hết, ngay từ lời nói đầu của Hiến pháp 2013 đã long trọng tuyên bố nhân dân
Việt Nam là chủ thể "xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này". Từ “Nhân dân” trong Hiến pháp được viết hoa một
cách trang trọng nhằm khẳng định bản chất nhà nước do dân, vì dân và
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân được Hiến pháp quan niệm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà
nước. Quốc Hội không còn là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến, mà quyền lập
Hiến thuộc về nhân dân. Nhân dân thông qua quyền lập Hiến giao quyền lực nhà
nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư pháp. Theo điều 70
Hiến pháp năm 2013, Nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm
vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám
sát tối cao và quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước. Đồng thời Điều 6 quy định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không
những bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và các cơ
quan khác của nhà nước mà còn bằng dân chủ trực tiếp thông qua việc thực hiện
quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý
dân về Hiến pháp (Điều 29 và Điều 120). Ðảng Cộng sản Việt Nam không những là lực lượng lãnh
đạo nhà nước và xã hội mà còn phải "gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục
vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về
những quyết định của mình". Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân không những đại diện bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân mà Hiến pháp sửa đổi lần
này còn bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt
động của Nhà nước (Ðiều 9). Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội
của giai cấp công nhân và của người lao động còn đóng vai trò "tham gia
kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước..." (Ðiều
10). Những tư duy chính trị pháp lý mới đó, xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng
nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước: "Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân".
Như vậy, nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân” có ý nghĩa chỉ đạo tổ chức quyền lực nhà nước trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Hiến pháp năm 2013 là sự kết tinh và
thể hiện tính đúng đắn về quyền làm chủ của Nhân dân đối với đất nước, hướng
đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng, Nhà
nước và Nhân dân đã lựa chọn./.
MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG NGHỊ QUYẾT 10 HỘI NGHỊ LẦN NĂM BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XII
THS. TRẦN
THỊ KIM THƯ
Giảng viên khoa Lý
luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta với việc còn tồn tại đa dạng về hình thức sở hữu việc
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
là tất yếu khách quan. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân. Mặc dù, có sự khác nhau về quy mô sở hữu song cả hai chủ thể kinh
tế trên đều có thuộc tích chung đó là dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất và gọi chung là kinh tế tư nhân.
Chúng ta phải khẳng định, nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung với cơ chế bao cấp đã góp phần quan trọng vào huy động sức người, sức
của, huy động sức mạnh toàn dân cho cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu mô hình kinh
tế này đã không đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong điều kiện mới, chưa
phản ánh đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ở nước ta và trở thành lực cản, kìm hãm sự phát
triển đất nước trong thời gian dài. Từ thực tiễn đất nước đặt ra yêu cầu phải
đổi mới toàn diện, trong đó quan trọng nhất là đổi mới từ duy kinh tế. Đại hội
VI (1986) là mốc son thể hiện quá trình đổi mới của Đảng trong đó có đổi mới tư
duy về mô hình kinh tế.
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn có
chủ trương nhất quán là phát triển kinh tế nhiều thành phần, từng bước nhận
thức rõ hơn và đầy đủ hơn về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành
phần. Đại hội VI (12-1986) khẳng định “Cần
sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành
phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch...”.
Đồng thời, khẳng định cần phải: “Củng cố
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực
tập thể một cách toàn diện”
chỉ ra sự cần thiết: “Bằng những biện
pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự
liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, lần đầu tiên thành phần kinh tế tư nhân đã được khẳng định trong Văn
kiện Đại hội Đảng. Tiếp theo đó, Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 15-7-1988, của Bộ
Chính trị khóa VI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI và Nghị quyết số
10-NQ/TW, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối
đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định
kinh tế tư nhân được phát triển trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh;
xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. Những chủ trương đó là bước khởi
đầu quan trọng đối với kinh tế tư nhân nước ta. Tuy nhiên lúc này, kinh tế tư
nhân nói riêng, các thành phần kinh tế phi XHCN nói chung vẫn được coi là đối
tượng phải “cải tạo”, bằng những hình thức và bước đi thích hợp, tránh chủ quan
nóng vội.
Đại hội VII (6-1991) đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về
việc khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, Đại hội VII
khẳng định: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản
xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước”
và “Mọi người được tự do kinh doanh theo
pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”.
Điều đáng nói là Đảng ta đã khẳng định “Kinh tế tư bản tư nhân được
phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề
mà luật pháp không cấm”.
Như vậy, từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế “tàn dư”
của chế độ xã hội cũ, có thể sử dụng nhưng cần “cải tạo” đến Đại hội VII đã
thực sự coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng
phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung.
Qua 10 năm đổi mới, Đảng đánh giá đúng đắn về chính
sách kinh tế nhiều thành phần, coi đây là tạo động lực giải phóng sức sản xuất,
phát triển kinh tế - xã hội với thành quả to lớn. Trên cơ sở đó, Đại hội VIII
(6-1996) tiếp tục khẳng định “thực hiện
nhất quán, lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong
và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn
lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành
phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh
doanh”. Bước
phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư
nhân thể hiện trong Văn kiện Đại hội IX (1-2001), Đảng ta khẳng định “Kinh
tế tư bản tư nhân được khuyến
khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và
địa bàn mà pháp luật không cấm”.
Đồng thời Đảng đã đặt ra yêu cầu phải: “Tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư
nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước
ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên
doanh liên kết với nhau với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước”.
Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội IX, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX (năm 2002) thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế,
chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Như
vậy, lần đầu tiên kể từ sau khi tiến hành đổi mới Đảng ta đã có một Nghị quyết
chuyên đề về phát triển kinh tế tư nhân. Đại hội X (4-2006) và Đại hội XI
(1-2011) của Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát
triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế.
Đại hội XII (1-2016) vị trí, vai trò của kinh tế tư
nhân được khẳng định ở tầm mới, kinh tế tư nhân không chỉ là một động lực mà là
một động lực quan trọng trong nền kinh tế. Tiếp tục tinh thần trên, Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành Nghị quyết số 10 “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động
lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đây
là lần hai sau 15 năm (2002), Đảng ta tiếp tục ban hành một nghị quyết chuyên
đề về kinh tế tư nhân.
Nghị quyết lần này bên cạnh việc tiếp tục khẳng định
những quan điểm của Đảng trước đây về phát triển kinh tế tư nhân đã tiếp tục
khẳng định: Kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà
pháp luật không cấm; tạo môi trường và điều kiện cho việc liên doanh, liên kết
tự nguyện để hình thành tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh
nghiệp của các hộ kinh doanh; khuyến khích
kinh tế nhân tham gia vào quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp…hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Trên cơ sở
đánh giá đúng đắn thực trạng phát triển của kinh tế tư nhân sau 15 năm phát
triển, đặc biệt trong bối cảnh tham gia hội nhập quốc tế hiện này Đảng khẳng
định quan điểm, nhận thức mới về kinh tế tư nhân.
Thứ nhất, về tính lành mạnh của kinh tế tư nhân để thực sự trở
thành một động lực quan trọng trong nền kinh tế. Đảng đã khẳng định: “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ
chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa là vấn đề mang tính cấp thiết,
vừa mang tính lâu dài trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Đây là quan điểm mới của Đảng về phát
triển kinh tế tư nhân. Đánh giá lại thực trạng phát triển của thành phần kinh
tế này, Đảng khẳng định những hạn chế như vi phạm pháp luật và cạnh tranh không
lành mạnh trong kinh tế tư nhân còn khá phổ biến, gây ô nhiễm môi trường, mất
vệ sinh, an toàn trong sản xuất; gian lận thương mại của kinh tế tư nhân diễn
ra nhiều, phức tạp ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững. Để trở thành một động
lực quan trọng trong nền kinh tế đòi hỏi kinh tế tư nhân phải phát triển một
cách lành mạnh và tuân thủ cơ chế thị trường. Như vậy, để đáp ứng vai trò mới,
kinh tế tư nhân cần có sự phát triển mới về chất.
Thứ hai, kinh tế tư nhân phải được phát triển bền vững, đa
dạng với tốc độ cao cả về quy mô, số lượng và tỷ lệ đóng góp trong GDP. Đây
cũng là quan điểm mới của Đảng đối với phát triển của kinh tế tư nhân, xuất
phát thực tế kinh tế tư nhân ở nước ta vẫn là thành phần rất dễ bị tổn thương
trước những tác động của thị trường trong nước và quốc tế; kinh tế tư nhân ở
nước ta chủ yếu là kinh tế hộ gia đình và cá thể (chiếm 95%), quy mô chủ yếu là
nhỏ và siêu nhỏ; công nghệ sử dụng phần lớn là công nghệ lạc hậu. Trong thực
tế, sự phát triển của kinh tế tư nhân thiếu ổn định, tỷ lệ phá sản lớn (2007
-2015 chiếm 45% tổng số tổng số doanh nghiệp còn hoạt động). Cơ cấu của kinh tế
tư nhân chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ, lĩnh vực nông
nghiệp rất thấp (chiếm 1%).
Những hạn chế và yếu kém trên của kinh tế tư nhân thể
hiện tính không bền vững, phiến diện và chưa theo kịp cơ chế thị trường. Nếu
không được khắc phục và phát triển một cách đa dạng, bền vững và tốc độ cao thì
vai trò “một động lực quan trọng”
trong nền kinh tế, cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là nòng cốt xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của kinh tế tư nhân cũng không thể bảo đảm
được.
Thứ ba, thực tiễn 15 năm phát triển kinh tế nhiều thành phần
ở nước ta cho thấy trong xã hội vẫn còn những nhận thức chưa đúng, tồn tại
những rào cản đối với thành phần kinh tế tư nhân. Đảng nhấn mạnh quan điểm phải
“Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng hướng”.
Đồng thời, Đảng đã nhận thức đúng đắn vấn đề phát triển kinh tế tư nhân với bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng yêu cầu phải nhận thức đầy đủ thế mạnh,
ưu điểm và hạn chế, mặt trái của kinh tế tư nhân để thực hiện quản lý nhà nước
có hiệu quả ngăn chăn, hạn chế phát sinh trong quá trình phát triển của thành
phân kinh tế này như “chủ nghĩa tư bản thân hữu” và quan hệ “lợi ích nhóm”,
thao túng chính sách để trục lợi bất chính.
Có thể nói, Nghị quyết 10 Hội nghị lần thứ năm của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII thể hiện nhận thức và quan điểm của Đảng ta về sở
hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Nghị quyết có ý nghĩa lớn đối với giải phóng sức sản xuất, huy động hiệu
quả nguồn lực, đồng thời bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
phát triển kinh tế tư nhân và vận hành cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay.
Việc quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc và hiệu quả Nghị quyết có ý
nghĩa quan trọng đối thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính trị được Đảng trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh./.
PHÁT HUY VAI
TRÒ CHỦ THỂ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
– YẾU TỐ
QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI
TẠI TỈNH NAM
ĐỊNH
THS. VŨ
QUỐC MẠNH
Bí thư
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Lịch sử nhân loại đã chứng minh
rằng không có một cuộc cách mạng xã hội nào có thể thành công nếu nó không xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Nói cách khác, quần chúng nhân dân là
chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của
lịch sử.
Là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quần chúng nhân dân cũng giữ vai trò
quyết định trong thực hiện thắng lợi Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính
ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Khẳng định điều này, C.Mác viết: “Ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế độ xã hội,
thì bản thân quần chúng phải tự mình tham gia công cuộc cải tạo ấy, phải tự
mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành đấu tranh, vì sao mình phải đổ máu và hy
sinh tính mạng”.
Do đó, lịch sử là hoạt động của con người theo đuổi những mục đích của mình.
Tuy nhiên, lịch sử đó không phải được tạo nên bởi những cá nhân riêng lẻ, mà
phải do số đông thực hiện, đó là quần chúng nhân dân.
Vai trò
chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần
chúng nhân dân trước hết là do quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản
của mọi xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại
và phát triển của con người, của xã hội. Cùng với quá trình sáng tạo ra của cải
vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hay gián
tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội. Mọi giá trị sáng tạo tinh
thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của quần
chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực một khi được vật chất hóa bởi
hoạt động thực tiễn của nhân dân.
Lịch sử
nhân loại đã chứng minh rằng không có một cuộc cách mạng xã hội nào có thể
thành công nếu nó không xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần
chúng nhân dân. V.I.Lênin khẳng định: "Cách
mạng là ngày hội của những người bị áp bức và bóc lột. Không lúc nào quần chúng
nhân dân có thể tỏ ra là người tích cực sáng tạo ra những trật tự xã hội mới
như trong thời kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế,... thì nhân dân có
thể làm được những kỳ công".
Cách mạng là "ngày hội của quần chúng" và trong ngày hội đó, quần
chúng nhân dân có thể sáng tạo ra lịch sử "một ngày bằng hai mươi
năm".
Như vậy,
những cuộc cách mạng và cải cách xã hội cần đến lực lượng quần chúng nhân dân
và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân cũng cần có những cuộc cách mạng và cải
cách xã hội. Đó chính là biện chứng của quá trình phát triển xã hội.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng đó của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mọi hoạt cách mạng phải “lấy dân
làm gốc”. Đánh giá sức mạnh của nhân dân, Người cho rằng: "Trong bầu trời, không có gì quý bằng nhân dân, không có gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Biết
phát huy sức mạnh của nhân dân thì dù việc khó khăn đến mấy cũng có thể thực
hiện thành công. Người luôn nhắc nhở: “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh
hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực
lượng cách mạng vô tận của nhân dân”.
Nhận
thức được vai trò to lớn và sức mạnh của quần chúng nhân dân Đảng Cộng sản Việt
Nam
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn nêu cao tư tưởng "Cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng". Khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong
cách mạng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã rút ra một
bài học kinh nghiệm lớn, đó là: “Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính
nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng
phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của
Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân”. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị trong giai đoạn hiện nay khi đất nước
ta đang thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Chương trình xây dựng nông
thôn mới đã tạo bước đột phá trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao
đời sống cho người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 7
(khoá X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Sau 5 năm xây dựng nông thôn mới giai đoạn (2010 – 2015), cả nước đã đạt
được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng. Tính đến hết tháng 11/2015, cả nước
có 1.298 xã (14,5%) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Ở cấp huyện, đã có
11 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định công nhận đạt
chuẩn nông thôn mới là: Huyện Xuân Lộc, Thống Nhất, thị xã Long Khánh (Đồng
Nai), Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè (TP.HCM), Đông Triều (Quảng Ninh), Hải Hậu (Nam
Định), Đơn Dương (Lâm Đồng), Đan Phượng (TP. Hà Nội), thị xã Ngã Bảy (Hậu
Giang).
Nam Định là
tỉnh trọng điểm trồng lúa của Đồng bằng sông Hồng, với gần 80% dân số sống ở
nông thôn, chủ yếu là sản xuất nông, diêm, ngư nghiệp. Thực hiện chương trình
mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Tỉnh ủy Nam Định xác định: “Tập
trung lãnh đạo, thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết Trung ương 7 (khoá X)”; “Về nông nghiệp, nông dân và nông thôn”. Đẩy
nhanh quá trình xây dựng nông thôn mới, trong đó chú trọng phát huy vai trò chủ
thể của nông dân và cộng đồng thôn xóm. Từng bước đưa chương trình xây dựng
nông thôn mới thành cuộc vận động sâu rộng ở các địa phương dưới sự lãnh đạo
của các cấp uỷ Đảng; phấn đấu đến năm 2020, Nam Định là tỉnh nông thôn mới, có
nền công nghiệp phát triển nhanh theo hướng hiện đại.
Kết
quả trong giai đoạn đầu xây dựng nông thôn mới trong toàn tỉnh tính đến hết năm 2016 đã có 163 xã
được công nhận là nông thôn mới, 1 huyện được công nhận là huyện nông thôn mới.
Có được những kết quả nêu trên trước hết là do hệ thống chính trị các cấp đã
phát huy được vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới. Thực
tiễn xây dựng nông thôn mới ở Nam Định cho thấy, ở địa phương nào cấp ủy Đảng,
chính quyền và các đoàn thể nhân dân phát huy được vai trò làm chủ của nhân dân
trong xây dựng nông thôn mới, thì ở đó việc thực hiện các tiêu chí về nông thôn
mới diễn ra thuận lợi và đạt kết quả cao. Tiêu biểu như huyện Hải Hậu, trong quá
trình thực hiện chương trình, toàn huyện đã huy động trên 1.500 tỷ đồng xây
dựng nông thôn mới (nhân dân đóng góp 586 tỷ đồng; vốn cấp trên và ngân sách
địa phương 663 tỷ đồng; nguồn vốn khác hơn 259 tỷ đồng). Ngoài ra, nhân dân đã
tự nguyện hiến trên 345 ha đất nông nghiệp, 25 ha đất ở và trên 150.000 ngày
công lao động tháo, dỡ hàng ngàn công trình để xây dựng các công trình đường
giao thông, phúc lợi công cộng. Hay tại huyện Nghĩa Hưng, tổng nguồn vốn xây
dựng nông thôn mới của huyện là 749 tỷ đồng, trong đó vốn Trung ương và ngân
sách tỉnh hỗ trợ 134,4 tỷ đồng, ngân sách huyện 16 tỷ đồng, còn lại là vốn từ
các chương trình lồng ghép khác, vốn tín dụng, vốn huy động từ nhân dân. Ngoài
ra, nhân dân tự nguyện hiến, góp 266 ha đất để làm đường trục ra đồng, mở rộng
đường dong xóm, xây dựng kênh mương cấp 2 ngoài đồng và khu dân cư.
Cũng chính từ thực tiễn xây dựng nông
thôn mới ở Nam Định cho thấy, ở địa phương nào mà cấp ủy, chính quyền và các
đoàn thể nhân dân không phát huy được vai trò chủ thể của nhân dân thì ở đó
việc thực hiện các tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới diễn ra rất khó khăn,
tiêu biểu như huyện Nam Trực, Mỹ Lộc…. Do đó, để khắc phục những hạn chế nêu trên và tiếp tục phát huy vai trò của
quần chúng nhân dân trong thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền ở địa
phương tỉnh Nam Định cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất,
chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương phải thực hiện tốt công tác dân
vận. Các cấp chính quyền cần tích cực tuyên truyền, vận động để người dân hiểu
chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm mục đích phát triển nông thôn toàn
diện, bền vững, góp phần nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của
chính dân cư nông thôn. Trong xây dựng nông thôn mới, người dân vừa là người
làm vừa là người thụ hưởng.
Bên cạnh đó, cần phát huy tinh
thần gương mẫu của cán bộ, đảng viên ở địa phương trong việc đóng góp công sức
vào xây dựng nông thôn mới. Chính việc nêu gương
của cán bộ, đảng viên có tác động lan tỏa, khơi dậy tinh thần tự nguyện, tự
giác, hưởng ứng phong trào thi đua “Chung tay xây dựng nông thôn mới” trong
cộng đồng dân cư.
Thứ hai, để phát huy tốt vai trò chủ thể
của nhân dân, các cấp chính quyền phải thực hành dân chủ trong xây dựng nông
thôn mới. Thực hiện chính sách “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng thụ”,
tạo điều kiện để nhân dân tự quản, tự bàn bạc quyết định chương trình xây dựng
nông thôn mới ở địa phương. Công khai, minh bạch chương trình, kế hoạch xây
dựng nông thôn mới cũng như cách huy động và sử dụng nguồn vốn để người dân bàn
bạc và quyết định. Việc sử dụng nguồn vốn do mình đóng góp và giám sát việc sử
dụng nguồn vốn đó làm cho người dân tích cực, hăng hái đóng góp tiền của để xây
dựng nông thôn mới.
Thứ ba, khắc
phục bệnh thành tích trong xây dựng nông thôn mới. Cấp ủy, chính quyền khi huy
động sức dân vào xây dựng nông thôn mới không vì thành tích mà làm quá sức dân.
Người dân không phải trong một sớm một chiều được thụ hưởng những kết quả từ
việc xây dựng nông thôn mới nên ngay từ đầu kêu gọi họ đóng góp quá sức sẽ tạo
cho họ cảm giác chương trình nông thôn mới là một gánh nặng. Vì vậy, cấp ủy,
chính quyền khi huy động sức dân phải vừa sức, từng bước, tránh nóng vội.
Việc xây dựng thành công chương trình nông thôn mới sẽ
thực sự tạo ra bộ mặt mới cho nông thôn, nâng cao đời sống của một bộ phận lớn
người dân Việt Nam nói chung
và nhân dân Nam
Định nói riêng. Để làm được điều đó đòi hỏi cấp ủy, chính quyền và các tổ chức
chính trị-xã hội ở mỗi địa phương phải phát huy vai trò chủ thể của quần chúng
nhân dân. Nói cách khác, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quần chúng nhân dân
cũng giữ vai trò quyết định trong xây dựng nông thôn mới. Vấn đề quan trọng là
tìm những cách làm hay nhằm khơi dậy các nguồn lực, sức mạnh và sự đoàn kết
trong nhân dân./.
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC SOẠN VÀ
GIẢNG BÀI “NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ VẬN ĐỘNG
XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
Ở CƠ SỞ”
THS. NGUYỄN
THỊ NGA
Phó
trưởng khoa Dân Vận
“Nghiệp vụ công
tác Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân ở cơ sở” là một môn học trong chương
trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính. Đây là môn học nhằm
cung cấp những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ công tác Mặt trận Tổ quốc và đoàn
thể ở cơ sở. Bài “Nghiệp vụ công tác Mặt trận Tổ quốc và vận động xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở cơ sở” là
bài đầu tiên của môn học, giới thiệu khái quát về công tác vận động quần chúng của Mặt trận Tổ quốc
và các thành viên, trong đó có các tổ chức chính trị - xã hội. Qua việc soạn và
giảng bài tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất: Khâu soạn giáo án
Giáo án là toàn bộ kế hoạch
giảng dạy bao gồm phương án hoạt động của giảng viên và học viên tại lớp học
nhằm giúp cho học viên nắm vững những kiến thức, phát triển kỹ năng và tư duy,
bồi dưỡng tình cảm, nhân cách, đạo đức…Do vậy chuẩn bị tốt giáo án là khâu quan
trọng quyết định cho sự thành công của một bài giảng. Để soạn giáo án bài giảng
có chất lượng thì cần phải quan tâm đến những nội dung sau:
Một là, khi soạn giáo án, giảng viên
cần nghiên cứu kỹ nội dung bài và cần nghiên cứu các tài liệu có liên quan, đặc
biệt Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII; Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013
Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); … và các báo cáo tổng kết của
các cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể. Từ những kiến thức thực
tiễn minh họa làm nổi bật các kiến thức lý luận của bài giảng.
Hai là, giảng
viên cần xác định mục tiêu, trọng tâm của bài, là phần thể hiện nội dung chính
của bài, đòi hỏi giảng viên phải dành nhiều thời gian hơn các phần
khác để phân tích cụ thể. Đối với đối tượng học viên là cán bộ chuyên trách về công tác
dân vận, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân thì cần xác định phần nội dung
thứ hai - Nghiệp vụ công tác MTTQ và vận
động nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc - là nội dung trọng
tâm. Đối với học viên không phải cán bộ chuyên trách về công tác dân
vận, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân thì giảng viên cần xác định phải
giới thiệu cả phần nội dung thứ nhất - Công
tác mặt trận tổ quốc ở cơ sở - và phần nội dung thứ hai ở mức độ nhất định.
Như vậy, trên cơ sở xác định mục tiêu bài giảng, xác định đối
tượng người học, giảng viên lựa chọn nội dung và phương pháp, phương tiện giảng
dạy phù hợp.
Thứ hai: Khâu giảng bài trên
lớp
Trước hết, giảng viên phải tạo
bầu không khí sôi nổi, gần gũi. Muốn vậy giảng viên cần phải tự tin. Nhiều
người quan niệm rằng giảng dạy lý luận chính trị phải có tác phong nghiêm trang
không nói vui hay cười đùa dẫn đến lớp học thường ''nghiêm trang quá'', không
khí lớp học sẽ nặng nề không chỉ trong những phút ban đầu mà còn có thể trong
suốt quá trình buổi học. Như vậy sẽ không tạo ra được sự trao đổi, hợp tác giữa
giảng viên và học viên. Đây cũng là nguyên nhân mà giảng viên đặt câu hỏi, học
viên không dám trả lời. Vì vậy giảng viên nên cởi mở, thân thiện với học viên
để cùng hợp tác thực hiện bài giảng.
Hai là, trong
giảng bài giảng viên phải thể hiện đúng, đầy đủ kiến thức cơ bản của cả hai
phần nội dung “Công tác mặt trận tổ quốc ở cơ
sở” và “Nghiệp vụ công tác MTTQ và vận động nhân
dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”; chú
trọng nội dung trọng tâm của bài như đã xác định ở khâu soạn giáo án; đảm bảo
lý luận gắn với thực tiễn; đường lối, chính sách, quy định có tính chất hướng
dẫn nghịêp vụ; kết cấu bài giảng lôgic, khoa học, chặt chẽ; thực hiện đúng mục
đích, yêu cầu của bài giảng.
Ba là, sử dụng phương pháp,
phương tiện giảng dạy phù hợp. Đối với nội dung thứ nhất - Công tác mặt trận tổ quốc ở cơ sở - giảng viên nên sử dụng phương
pháp thuyết trình là chủ yếu và kết hợp với phương pháp hỏi đáp; phương tiện
giảng dạy là phấn, bảng, máy chiếu… Đối với phần nội dung thứ hai - Nghiệp vụ công tác MTTQ và vận động nhân dân
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc - giảng viên nên sử dụng kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận nhóm, phương
pháp chuyên gia và đặc biệt là phương pháp tình huống…; phương tiện giảng dạy là phấn,
bảng, máy chiếu, giấy A3 hoặc A0, ghim từ…
Bốn là, trong quá trình
giảng bài giảng viên phải thật sự chủ động, bình tĩnh làm chủ các phương tiện
giảng dạy để giảm nhẹ công việc của giảng viên. Đồng thời phát huy tính tích
cực chủ động của học viên làm cho giờ giảng không bị đơn điệu, nhàm chán, rập
khuôn và giảng viên có thể dẫn dắt người học nghiên cứu, khai thác các vấn đề
cần giải quyết của bài học một cách hiệu quả. Bên cạnh đó giảng viên cần có
ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu và phải bao quát lớp học để xử lý
các biểu hiện không phù hợp của học viên và những tình huống có thể xảy ra một
cách kịp thời, linh hoạt, phù hợp.
Năm là, thực hiện tốt 5 bước lên
lớp, đảm bảo về thời gian đã được xây dựng trong giáo án.
Thứ ba: Khâu rút kinh nghiệm
và bổ sung kiến thức sau khi giảng bài
Sau mỗi lần giảng bải, giảng viên phải dành thời gian suy nghĩ, tìm ra
những hạn chế, từ đó rút kinh nghiệm để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện bài
giảng. Một số hạn chế thường gặp trong giảng bài “Nghiệp vụ
công tác Mặt trận Tổ quốc và vận động xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở
cơ sở” là chưa có sự chuyển tiếp
nhịp nhàng, hợp lý giữa phần nội dung thứ nhất với phần nội dung thứ hai; chưa có
sự kết hợp hợp lý, chặt chẽ giữa hình trình chiếu với trình bày trên bảng; chưa
thực sự lấy học viên làm trung tâm; chưa có nhiều tình huống trong tổ chức và
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở nhằm khơi dậy sự sáng tạo và khả năng tư
duy của học viên… Để rút kinh nghiệm cho những hạn chế trên thì giảng viên phải
lắng nghe ý kiến của học viên trong quá trình lên lớp thông qua thảo luận hoặc
qua phiếu thăm dò và ý kiến góp ý của đồng nghiệp hoặc lãnh đạo.
Bên cạnh đó, trước khi giảng bài cho lớp tiếp theo cần phải nghiên cứu, nắm
vững các chủ trương, chính sách, quy định mới... liên quan đến tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để cập nhật kịp thời vào giáo án. Đồng thời
căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương, tình hình trong nước và quốc tế để
bổ sung những kiến thức, thông tin phù hợp. Bài giảng phải mang tính thời sự,
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và thời đại đặt ra trong từng giai đoạn lịch
sử với những nhiệm vụ cách mạng cụ thể của đất nước, địa phương.
Không chỉ rút kinh nghiệm về nội dung bài giảng mà giảng viên còn phải rút
kinh nghiệm trong việc sử dụng các phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối
tượng học viên; rút kinh nghiệm về việc thực hiện các bước lên lớp và sử dụng
các phương tiện dạy học để làm cho chất lượng bài giảng ngày càng tốt hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm rất mong được trao đổi cùng các đồng chí để
việc soạn và giảng bài “Nghiệp vụ công
tác Mặt trận Tổ quốc và vận động xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở cơ
sở” có hiệu quả hơn./.
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC ĐỐI VỚI GIẢNG VIÊN TRẺ
CN.
LÊ TIẾN DŨNG
Trưởng
phòng Nghiên cứu KH- TT- TL
Năng lực
trí tuệ, kiến thức khoa học và phương pháp làm ra người thầy. Sử dụng đa
dạng, phù hợp phương pháp giảng dạy là nhu cầu khách quan đảm bảo việc nâng cao
chất lượng giáo dục chính trị nói chung, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức trong tình hình hiện nay. Đào tạo Trung cấp lý luận chính
trị - hành chính (LLCTHC) đòi hỏi áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy phù hợp
không chỉ đóng khung trong các lớp học, tiết học mà cần được đặt trong môi
trường đa dạng. Trên bình diện chung việc lựa chọn, ứng dụng phương pháp
dạy học, giảng viên cần căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ đào tạo; nội dung phần
học, chuyên đề (môn học, bài giảng); đặc điểm của học viên; đặc điểm của giảng
viên; điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ giảng dạy và nguyên tắc giảng
dạy. Bàn về phương pháp giảng dạy phù hợp cần quan tâm tới đặc điểm của người
dạy, người học, mục tiêu, nội dung của chương trình và môi trường giảng dạy.
Đào tạo
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính đối tượng học tập chủ yếu là cán bộ
lãnh đạo, quản lý, cán bộ dự nguồn cơ sở, cán bộ, công chức, viên chức cơ sở,
v.v. được các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị chọn, cử đi học; Người
học thường có những lợi thế về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác thực
tiễn nhất định và hạn chế về sự bảo thủ trong nhận thức, sự thiếu tập trung
trong học tập dưới tác động của các yếu tố xã hội, công việc, vị trí công tác
và các yếu tố chủ quan khác. Học tập LLCTHC là quá trình nhận thức có hệ
thống các nguyên lý cơ bản, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, cập nhật và sự vận dụng để đánh giá, giải quyết công
việc nhằm thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên
môn sau đào tạo; việc học tập phải thiết thực, thiết yếu, thiết thân, đây
chính là mục tiêu xây dựng nội dung chương trình và yêu cầu cơ bản trong giảng dạy
Trung cấp LLCTHC.
Phương pháp
giảng dạy LLCTHC là tổng thể cách thức, biện pháp truyền thụ kiến thức để đạt
hiệu quả cao nhất trong đào tạo LLCTHC; xác định phương pháp giảng dạy phù hợp
với giảng viên trẻ cần làm rõ mục tiêu, yêu cầu căn bản về tư tưởng, nội
dung chương trình đào tạo, phần học, môn học, bài học cụ thể được đảm nhiệm
trên cơ sở đặc điểm, thế mạnh và hạn chế của giảng viên trẻ. Quan
điểm sai lệch phiến diện, chung chung trong thực tiễn về mục tiêu đào tạo như
để hoàn thiện các tiêu chí về bằng cấp đã triệt tiêu động lực của cả người dạy
và người học trong việc đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng đào tạo. Vì
vậy trước tiên để lựa chọn phương pháp giảng dạy phải xác định rõ ràng,
chắc chắn mục đích yêu cầu căn bản của truyền thụ, thái độ, kỹ năng, những vấn
đề mang tính nguyên tắc mà người làm công tác đào tạo phải quán triệt.
Lựa chọn,
vận dụng phương pháp phù hợp cần quan tâm tới đặc điểm và nhu cầu của người
học, những lợi thế và những hạn chế của họ như: kinh nghiệm thực tiễn phong
phú, muốn được thể hiện, được tôn trọng nhưng trí nhớ máy móc giảm sút, thiếu
tư duy hệ thống, tư duy lý thuyết, tư duy khái niệm mà chủ yếu là tư duy hành
động, v.v. Phương pháp giảng dạy hợp tác, tương tác, lấy người học làm trung tâm,
phát huy những lợi thế, thế mạnh, khai thác năng lực tư duy chủ động sáng tạo
và kinh nghiệm thực tiễn, giảng dạy chủ yếu mang tính chất gợi mở, hướng dẫn,
định hướng, tổ chức để học viên chủ động làm việc và giảng viên khái quát, hệ
thống, kết luận vấn đề là sự lựa chọn đúng đắn nhất.
Một vấn đề
quan trọng và khó khăn đối với giảng viên trẻ trong lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp, hiệu quả xuất
phát từ chính đặc điểm, lợi thế và hạn chế của giảng viên; trình độ chuyên môn cao, được đào tạo cơ bản,
hệ thống của giảng viên trẻ (trong đó có thể bao gồm cả lý thuyết về phương
pháp giảng dạy được xác định qua chứng chỉ sư phạm) và môi trường giảng dạy với
mục tiêu, đòi hỏi chuyên môn giới hạn, đối tượng học tập đa dạng, chưa có kinh
nghiệm, thực tiễn, chưa tạo thành kỹ năng công việc (sư phạm), sự định hình
phương pháp phù hợp vừa là lợi thế và thách thức đối với giảng viên trẻ.
Để đáp ứng
yêu cầu giảng viên trẻ phải tự giác trau dồi, cập nhật chuyên môn, bổ sung kiến
thức thực tiễn, nhuần nhuyễn phương pháp, kỹ năng giảng dạy (sư phạm) đây là
tiền đề không thể thiếu được trong lựa chọn và vận dụng phương pháp giảng dạy,
cụ thể là:
- Xác định
các giới hạn nội dung chuyên môn giảng dạy phù hợp với mục tiêu, giới hạn của
chương trình và đối tượng học tập; hạn chế việc trình bày các vấn đề quá sâu,
rộng ngoài phạm vi chương trình hoặc nêu ra các vấn đề không rõ giới hạn, định
hướng để không thể giải quyết triệt để, đây là nguyên nhân của tình trạng cháy
giáo án và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả nhận thức của học viên.
- Khắc phục
việc giảng dạy hoàn toàn lý thuyết, không có sự tương tác, thiếu thực tiễn,
người học hoàn toàn thụ động để tránh bộc lộ những hạn chế nội tại của chính
bản thân giảng viên; ví dụ, tình huống được đưa ra không có tính thực tiễn làm
việc giảng dạy mất đi ý nghĩa đích thực (độc thoại, đọc cho chép…) và hiệu quả
thấp.
- Hạn chế
biểu hiện thụ động tổ chức các hoạt động trên lớp, như giao toàn quyền cho học
viên, không định hướng, không kết luận, tổng kết, v.v.
Giảng
viên trẻ cần nắm vững tư tưởng chỉ đạo, định hướng, đổi mới phương pháp giảng
dạy, thay đổi phương pháp giảng dạy truyền thống vai trò chủ yếu là người
thầy, phấn, bảng, cách dạy học thụ động, độc thoại, áp đặt nhận thức về nội
dung được ấn định cụ thể, thông tin một chiều bằng việc giảng dạy tích cực,
khoa học hơn, thuyết trình cơ bản, tích cực với sự tham gia chủ động, quan hệ
tương tác, đối thoại giữa các đối tượng tham gia giảng dạy, học tập; biến giảng
dạy từ quá trình truyền thụ kiến thức thành quá trình nghiên cứu, đánh giá,
khám phá để tiếp thu những kiến thức mới của các nhóm hoặc theo mục tiêu. Quá
trình đào tạo chuyển từ việc tập trung vào việc giảng dạy kiến thức chuyển
thành việc tổ chức, định hướng cho việc nghiên cứu, học tập của học viên với sự
tôn trọng kinh nghiệm, vốn hiểu biết của học viên; tạo sự tích cực, chủ động
trong việc tự nghiên cứu, phát hiện, kết luận, đánh giá và giải quyết các vấn
đề trong học tập; phát huy những thế mạnh về tư duy hoạt động, kinh nghiệm,
v.v. của học viên; khắc phục hạn chế như khả năng nhớ máy móc, tư duy áp đặt,
v.v. để người học thực sự là trung tâm của quá trình nhận thức tự thay đổi,
điều chỉnh, hoàn thiện nhận thức với quan niệm đúng và khoa học hơn.
Giảng
viên trẻ khi giảng dạy chương trình Trung cấp LLCTHC luôn phải đứng trước thách
thức, áp lực rất lớn. Ngoài những lợi thế về kiến thức chuyên môn, lý thuyết
được đào tạo cơ bản, hệ thống; giảng viên trẻ luôn thiếu kiến thức, kỹ năng và
kinh nghiệm thực tiễn; chưa định hình được phương pháp và luôn gặp khó khăn
trong việc lựa chọn phương pháp phù hợp. Kinh nghiệm lựa chọn và vận dụng
phương pháp giảng dạy cần lưu ý:
- Chuẩn
bị chu đáo kiến thức và tâm thế trước khi lên lớp; có giáo án chi tiết, phương
án giảng dạy chi tiết, cụ thể phản ánh đủ, rõ ràng 5 bước lên lớp; trong đó cô
đọng các nội dung trình bày, phân tích, nội dung cần nhấn mạnh, nội dung cho
ghi, xác định cụ thể các phương pháp, nội dung, quy trình cụ thể của từng
phương pháp dự kiến áp dụng trong quá trình giảng dạy.
- Chuẩn
bị kỹ lưỡng hệ thống tài liệu, thực tiễn, những ví dụ cần đưa ra, phân tích
trong quá trình giảng dạy; xác định các yêu cầu mà học viên cần phải chuẩn bị
trước khi học tập (đọc giáo trình, câu hỏi, vấn đề, v.v.).
- Thực
hiện nghiêm ngặt yêu cầu và quy trình của việc áp dụng từng phương pháp cụ thể
dự kiến. Các phương pháp được lựa chọn phải phù hợp nội dung, tính chất, yêu
cầu của từng phần học, môn học, bài học, đối tượng tham gia học tập, gắn với
tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và thực tiễn địa phương. Đảm bảo phương
pháp giảng dạy cơ bản của chương trình là: phương pháp thuyết trình cơ bản tích
cực thực hiện trên cơ sở kế thừa các giá trị của phương pháp giảng dạy truyền
thống, kết hợp các phương pháp giảng dạy hiện đại.
- Phát
huy lợi thế (đào tạo cơ bản, kiến thức lý thuyết sâu, rộng), khắc phục hạn chế
(kinh nghiệm, thực tiễn) của giảng viên trẻ; chú trọng sử dụng nhuần nhuyễn
từng phương pháp trên cơ sở sự phù hợp nội dung giáo trình, tài liệu và thực
tiễn.
- Nên lựa
chọn chủ yếu các phương pháp mà tính chất phức tạp của nó trong vận dụng không
cao như: phỏng vấn nhanh, lấy ý kiến ghi lên bảng, sàng lọc; kết hợp áp dụng
phương pháp với sự hỗ trợ của các phương tiện giảng dạy hiện đại để nâng cao
chất lượng giảng dạy đào tạo./.
MỘT SỐ ĐIỂM
MỚI TRONG QUY CHẾ ĐÁNH GIÁ
VÀ QUẢN LÝ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN TRUNG CẤP
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
THS. TRẦN THUỲ DƯƠNG
Phó Trưởng phòng Đào tạo
Để
điều chỉnh những bất cập trong Bộ Quy chế, quy định về quản lý đào tạo ban hành
kèm theo Quyết định số 268/QĐ-HVCT-HCQG, ngày 03/02/2010, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh đã ban hành bộ Quy chế quản lý đào tạo của trường Chính
trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Kèm theo Quyết định số
1855/QĐ-HVCTQG, ngày 21/4/2016). Bộ Quy chế mới này có hiệu lực từ ngày
01/8/2016 thay thế cho các Quy chế, quy định quản lý đào tạo trước đó.
Từ
ngày 01/8/2016, Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định thực hiện việc Đánh
giá và quản lý kết quả học tập của học viên Trung cấp lý luận chính trị - hành
chính theo quy chế này. So với bộ quy chế Ban hành kèm theo Quyết định số
268/QĐ-HVCT-HCQG, ngày 03/02/2010, việc đánh giá và quản lý kết quả học tập của
học viên ở bộ Quy chế mới này có nhiều điểm mới.
Thứ
nhất về thể thức: Bộ quy chế ban hành kèm theo Quyết định số
268/QĐ-HVCT-HCQG, ngày 03/02/2010 có ba quy chế riêng: Quy chế thi, kiểm tra và
xếp loại học tập; Quy chế viết tiểu luận cuối khoá; Quy chế xét công nhận và cấp
bằng tốt nghiệp. Trong khi chờ sửa đổi, bổ sung các Quy chế trên cho phù hợp
với nội dung chương trình, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh ban hành Hướng dẫn số 02/HD-HVCT-HCQG, ngày 13/3/2013 sau đó thay thế
bằng Hướng dẫn số 08/HD-HVCTQG, ngày 29/5/2014 kết hợp hai hình thức viết tiểu
luận cuối khoá và thi tốt nghiệp.
Ở Bộ quy chế ban hành kèm theo Quyết định số
1855/QĐ-HVCTQG, ngày 21/4/2016 quy định Quy chế đánh giá và quản lý kết quả học
tập của học viên gộp các quy định về: thi và thu hoạch nghiên cứu thực tế, khoá
luận tốt nghiệp, điểm và xếp loại học tập, xét công nhận tốt nghiệp; bảo lưu
kết quả học tập vào trong một quy chế.
Quy chế mới đã kế thừa và thay
đổi một số điểm trong Quy chế, Quy định cũ, phạm vi điều chỉnh và đối tượng
điều chỉnh của quy chế gọn hơn, không dàn trải như quy chế, quy định cũ. Do đó,
việc đánh giá và quản lý kết quả học tập của học viên được hướng dẫn khá đầy
đủ, chi tiết cho các chủ thể khi thực hiện các bước trong quy trình quản lý đào
tạo.
Thứ
hai về nội dung:
- Đối với việc xét điều kiện dự thi hết phần học:
+ Quy chế ban hành kèm theo Quyết
định số 268/QĐ-HVCT-HCQG, ngày 03/02/2010 quy định: Học viên vắng mặt không quá
10% tổng số thời gian của phần học. Nếu thời gian vắng mặt vượt quá 10% tổng số
thời gian của phần học thì phải học bù phần học đó.
+ Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQG, ngày 21/4/2016
quy định: Học viên vắng có lý do dưới 20% tổng số thời gian học trên lớp của
phần học thì học lại nội dung chưa học; nếu vắng có lý do trên 20% tổng số thời
gian học trên lớp của phần học hoặc vắng không có lý do thì học lại cả phần học
đó.
Điểm
mới trong quy chế mới chính là việc quy định học viên học bù khối lượng kiến
thức chưa học. Qua đó cho thấy sự nghiêm túc trong quá trình đánh giá ý thức
học tập của học viên. Để đủ điều kiện dự thi hết phần học, quy chế mới yêu cầu
học viên không chỉ đảm bảo số tiết trên lớp học mà yêu cầu học viên còn phải có
đủ khối lượng kiến thức trong phần học. Đây là một điểm mới, có giá trị lớn
trong việc đánh giá và quản lý học viên.
- Đối với việc đi nghiên cứu thực tế và viết bài thu
hoạch nghiên cứu thực tế
+ Quy chế ban hành kèm theo Quyết
định số 268/QĐ-HVCT-HCQG, ngày 03/02/2010 chưa quy định cụ thể sau khi học viên
đi nghiên cứu thực tế về phải viết bài thu hoạch cá nhân.
+ Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQG,
ngày 21/4/2016 quy định bắt buộc 100%
học viên của lớp đi nghiên cứu thực tế phải có bài viết thu hoạch theo
nội dung nghiên cứu. Ban Giám đốc phân công giảng viên hướng dẫn và chấm bài
thu hoạch thực tế.
Điểm
mới trong Quy chế Ban hành kèm theo Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQG, ngày
21/4/2016 là việc đi nghiên cứu thực tế là bắt buộc đối với tất cả học viên
tham gia học Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, viết bài thu hoạch theo
nội dung nghiên cứu, có chấm điểm và tính điểm như một phần học. Quy định mới
này đã đảm bảo tính lôgíc chặt chẽ trong chương trình đào tạo, lý luận gắn liền
với thực tiễn. Việc phân công giảng viên hướng dẫn, viết bài thu hoạch cá nhân,
chấm bài thu hoạch thể hiện vai trò tầm quan trọng trong nghiên cứu thực tế của
học viên, từ đó nâng cao ý thức của học viên trong quá trình học phải đi đôi
với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.
- Khoá luận (Tiểu luận) tốt nghiệp:
+ Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 268/QĐ-HVCT-HCQG, ngày
03/02/2010 quy định 100% học viên học đủ các phần học trong chương trình và kết
quả học tập đạt trung bình trở lên được viết tiểu luận cuối khoá. Hướng dẫn số
02/HD-HVCT-HCQG ngày 13/3/2013 sau đó thay thế bằng Hướng dẫn số 08/HD-HVCTQG
ngày 29/5/2014 kết hợp hai hình thức viết tiểu luận cuối khoá và thi tốt nghiệp
có quy định tỉ lệ số học viên viết tiểu luận cuối khoá tối đa là 20% lấy từ cao
xuống thấp theo điểm trung bình các phần học, điểm trung bình các phần học đạt
từ 7,0 trở lên, không có điểm phần học
dưới 6,0.
+ Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQG, ngày 21/4/2016
quy định về điều kiện viết khoá luận tốt nghiệp cuối khoá với tỉ lệ không quá
25% lấy từ cao xuống thấp theo trung bình cộng các phần học. Điểm trung bình
các phần học đạt từ 7,0 trở lên, không
có điểm phần học dưới 6,0; không thi lại.
Về tên gọi : Thay đổi từ tiểu luận thành
khoá luận
Về tỉ lệ: Ở quy chế mới thì tỉ lệ số học
viên viết khoá luận cuối khoá cao hơn 5%
(tỉ lệ tối đa 25%) so với quy chế, quy định cũ.
Về giáo viên hướng dẫn: Quy chế Ban hành kèm
theo Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQG, ngày 21/4/2016 quy định 01 giảng viên hướng
dẫn không quá 03 học viên/lớp và được tính 10 giờ chuẩn/học viên trong khi đó
Quy chế, quy định cũ 01 giảng viên hướng dẫn không quá 05 học viên/lớp và được
tính 2 giờ chuẩn/học viên.
Có
thể nói, điểm mới trong Quy chế là thay khoá luận cho tiểu luận, nâng tỉ lệ số
học viên viết khoá luận từ 20% lên 25%; giảm số học viên hướng dẫn trên một
giảng viên, tăng số giờ hướng dẫn trên một khoá luận có ý nghĩa tạo điều kiện
khuyến khích học viên trong học tập và nâng cao vai trò, trách nhiệm của giảng
viên trong việc hướng dẫn học viên viết khoá luận.
- Quy định về thi, điểm thi và xếp loại học tập:
+ Quy chế ban hành kèm theo Quyết
định số 268/QĐ-HVCT-HCQG, ngày 03/02/2010 có quy định: Điểm phần học là điểm
trung bình các bài kiểm tra và bài thi trong đó điểm kiểm tra tính hệ số 1,
điểm thi học phần tính hệ số 2. Điểm trung bình khoá học là điểm trung bình các
phần học và điểm tiểu luận cuối khoá (Điểm thi tốt nghiệp). Điểm phần học tính
hệ số 1, điểm tiểu luận cuối khoá (điểm thi tốt nghiệp) tính hệ số 3. Riêng đối
với thi tốt nghiệp, Hướng dẫn số 02/HD-HVCT-HCQG, ngày 13/3/2013 thay thế bằng
Hướng dẫn số 08/HD-HVCTQG, ngày 29/5/2014 quy định hình thức thi là tự luận,
học viên được sử dụng tài liệu.
+ Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQG, ngày
21/4/2016 quy định điểm phần học, điểm
thu hoạch nghiên cứu thực tế tính hệ số 1. Điểm thi tốt nghiệp, điểm khoá luận
tốt nghiệp tính hệ số 3. Điểm trung bình toàn khoá học là trung bình cộng điểm
các phần học, điểm bài thu hoạch nghiên cứu thực tế, điểm thi tốt nghiệp (hoặc
khoá luận tốt nghiệp). Hình thức thi
tốt nghiệp tự luận, không được sử dụng tài liệu.
Như
vậy, điểm mới trong Quy chế là tất cả các môn học đều tổ chức thi để đánh giá
kết quả, không có bài kiểm tra; bài thi và bài thu hoạch tính hệ số 1, điểm tốt
nghiệp (thi và khoá luận) tính hệ số 3. Thi tốt nghiệp yêu cầu học viên phải
chủ động về kiến thức trong quá trình làm bài không phụ thuộc vào tài liệu,
giáo trình. Điểm mới trong quy chế này có giá trị cao trong việc đánh giá ý
thức của học viên trong cả khoá học.
Trên
đây là một số điểm mới trong Quy chế Đánh giá và quản lý kết quả học tập của
học viên Trung cấp lý luận chính trị - hành chính. Hy vọng rằng, với những điểm
mới trong quy chế này sẽ góp phần nâng cao ý thức học tập của học viên. Qua đó
tạo những thuận lợi cho cán bộ, giảng viên trong việc Đánh giá và quản lý kết
quả học tập của học viên Trung cấp lý luận chính trị - hành chính tại các
trường Chính trị tỉnh hiện nay./.
MỘT SỐ KHÓ
KHĂN TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
THS. CAO THỊ HÀ
Phó Trưởng Khoa Nhà nước và Pháp luật
Trong nhiệm kỳ 2016-2021, trên
địa bàn toàn tỉnh Nam Định, sau 7 năm gián đoạn không tổ chức HĐND ở 9 huyện và
20 phường, Hội đồng nhân dân (HĐND) của 229 xã, phường, thị trấn, đã được tổ
chức. Đây là nhiệm kỳ triển khai những quy định mới trong Luật tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015. Tính đến tháng 7/2017, các xã, phường, thị trấn đã
tổ chức 4 kỳ họp. Quá trình triển khai hoạt động, bên cạnh một số kết quả đạt
được đã xuất hiện một số khó khăn cần sớm có biện pháp khắc phục.
Khó khăn thứ nhất là về tổ chức của HĐND cấp xã. Một số cơ quan của HĐND
cấp xã chưa được tổ chức thật sự hợp lý.
Đối với Thường trực HĐND cấp xã,
tại khoản 2, Điều 32, Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 quy định Thường
trực HĐND cấp xã gồm Chủ tịch HĐND, một Phó Chủ tịch HĐND cấp xã. Cách tổ chức
này, giống như nhiệm kỳ trước, Thường trực HĐND cấp xã không có ủy viên và xác
định rõ chỉ có một Phó Chủ tịch HĐND cấp xã. Với cơ cấu chỉ có 2 người như vậy,
Thường trực HĐND cấp xã nhiệm kỳ này vẫn tiếp tục gặp khó khăn trong bảo đảm
nguyên tắc quyết định theo đa số khi bàn bạc, thống nhất thực hiện những nhiệm
vụ thuộc thẩm quyền.
Đối với các Ban HĐND cấp xã, theo
quy định tại Điều 108, Luật tổ chức Chính quyền địa phương 2015 được thành lập
2 Ban là Ban pháp chế và Ban kinh tế - xã hội. Ban của HĐND xã là cơ quan của
HĐND xã, có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước khi
trình HĐND, giám sát, kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách;
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND xã. Trưởng Ban, Phó Trưởng ban
và các thành viên khác của Ban HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm (Khoản 5, Điều
33). Trưởng Ban không nằm trong Thường trực HĐND cấp xã.
Rõ ràng việc thành lập các Ban
của HĐND cấp xã là cần thiết, đảm bảo thực hiện tốt hơn các chức năng, nhiệm vụ
của HĐND cấp xã. Tính chất hoạt động của các Ban HĐND cấp xã là thường trực,
chuyên trách trên các mảng lĩnh vực phụ trách. Nhưng Luật quy định thành viên
các Ban của HĐND cấp xã đều hoạt động kiêm nhiệm. Đặc biệt hiện nay nhiều xã
trên địa bàn khó sắp xếp, bố trí đại biểu có đúng chuyên môn đào tạo hay hiểu
biết chuyên sâu về các mảng lĩnh vực mà Ban phụ trách. Do hoạt động kiêm nhiệm
nên các thành viên của Ban không thể tập trung thời gian cho nhiệm vụ, họ hiện
không được hưởng các chế độ phụ cấp để tạo động lực vật chất khi thực hiện
nhiệm vụ. Khi cần xin hướng dẫn của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND huyện,
do mới tái thành lập nên chưa có nhiều ý kiến hướng dẫn xác đáng. Theo đó, việc
thành lập các Ban HĐND cấp xã trên thực tế đang được tổ chức nhưng chưa thể đem
lại hiệu quả như mong muốn.
Đối với các Tổ đại biểu HĐND,
theo quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương, nhiệm kỳ này chỉ tổ
chức các tổ đại biểu HĐND ở cấp tỉnh và cấp huyện, không tổ chức các Tổ đại
biểu HĐND cấp xã như trước đây. Đây là một khó khăn cho các đại biểu khi không
có nơi để chia sẻ, nghiên cứu tài liệu chuẩn bị
đóng góp ý kiến cho kỳ họp cũng như thu thập ý kiến, kiến nghị của cử tri trước
kỳ họp để bàn luận, tranh luận trước khi chuyển ý kiến tới HĐND. Thường trực HĐND và các ban của HĐND cấp xã không có
đầu mối địa chỉ để nắm bắt tình hình đại biểu cũng như giúp triển khai kế hoạch
hoạt động tới từng đại biểu.
Khó khăn thứ hai là về trình độ, nhận thức, kỹ năng hoạt
động của đại biểu HĐND cấp xã.
Qua tìm hiểu trên địa bàn, vẫn
còn một số đại biểu HĐND cấp xã nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của
HĐND và đại biểu HĐND cấp xã cũng như những kỹ năng thực hiện nhiệm vụ. Số đại
biểu này chưa hiểu hết bản chất của Hội đồng nhân dân với tư cách là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Có đại biểu còn cho rằng nhiệm vụ của
đại biểu HĐND cấp xã thuần túy chỉ là có mặt để dự 2 kỳ họp trong năm và giơ
tay biểu quyết.
Theo báo cáo kết quả bầu cử HĐND
cấp xã trên địa bàn tỉnh Nam Định, trong 5.954 đại biểu được bầu có 1.333 đại
biểu = 22,39% đại biểu có trình độ Trung học cơ sở; đại biểu có trình độ chuyên
môn dưới Đại học là 4.735 = 79,53%; có 3.028 đại biểu = 50,86% đại biểu chưa có
trình độ lý luận chính trị. Với các đại biểu chỉ có trình độ trung học cơ sở sẽ
gặp nhiều áp lực để có thể thực hiện hết các yêu cầu của nhiệm vụ đại biểu khi
thực hiện chức năng quyết định và chức năng giám sát như phải nghiên cứu nhiều
chính sách, pháp luật; phải quyết định, giám sát nhiều vấn đề trong đó có vấn
đề ngân sách; phải tiếp xúc cử tri, tiếp công dân khi trình độ dân trí đang
được nâng lên đáng kể… Đối với đại biểu là thành viên 2 Ban HĐND cấp xã, do mới
thành lập nên các đại biểu chưa có kinh nghiệm, kỹ năng trong thẩm tra, giám
sát chuyên sâu với 2 mảng lĩnh vực phụ trách. Vì vậy các nhiệm vụ được phân
giao cho hai Ban HĐND cấp xã hiện nay thực hiện còn hình thức.
Bên cạnh đó, một số chế độ, chính sách đối với HĐND cấp
xã chưa được bảo đảm thực hiện. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
1206/2016/NQ-UBTVQH13 về chế độ chính sách và điều kiện bảo đảm hoạt động của
đại biểu HĐND. Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định ban hành Nghị quyết số
30/2016/NQ-HĐND quy định một số chế độ, chính sách và điều kiện đảm bảo hoạt
động của HĐND các cấp tỉnh Nam Định. Các văn bản này quy định rất nhiều chế độ
bảo đảm cho các hoạt động của HĐND cấp xã nhưng hiện ngân sách nhiều xã không
bố trí đủ nguồn chi trả.
Những khó khăn trên đây hiện đang
đặt ra đối với nhiều HĐND cấp xã trên địa bàn tỉnh Nam Định. Nhằm khắc phục
những khó khăn này, trong thời gian trước mắt cần tập trung vào một số vấn đề:
Một là, Quốc hội, Chính phủ và
các cấp HĐND cần sớm có tổng kết 1 năm thực hiện Luật tổ chức chính quyền địa
phương, sớm có hướng dẫn hoặc có thể nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung một số quy
định pháp lý cho phù hợp như bổ sung thêm 1 ủy viên của HĐND cấp xã; quy định
tính chất hoạt động chuyên trách của 2 Ban HĐND cấp xã, tiếp tục tổ chức Tổ đại
biểu HĐND cấp xã. Có như vậy thì Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
thực sự sẽ là một hành lang pháp lý quan trọng tạo ra cơ chế bảo đảm thực quyền
cho HĐND các cấp trong đó có HĐND cấp xã trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Hai là, cần tăng cường hơn nữa
trách nhiệm của các đại biểu nhất là các đại biểu tham gia ở các cơ quan của
HĐND cấp xã.
Đối với Thường trực HĐND cấp xã
cần xác định đây là cơ quan có vai trò rất quan trọng của HĐND cấp xã, hoạt
động thường trực, chỉ có một thành viên của Thường trực HĐND cấp xã là đại biểu
chuyên trách. Vì vậy thành viên Thường trực HĐND cấp xã cần phát huy cao độ vai
trò trong định hướng nội dung hoạt động, đề xuất xây dựng, hướng dẫn và đôn đốc
triển khai các giải pháp hiệu quả để thực hiện các nhiệm vụ của HĐND, các Ban
HĐND và đại biểu HĐND cấp xã.
Đối với thành viên 2 Ban là Ban
Pháp chế và Ban KT-XH của HĐND cấp xã cần xác định rõ đây là 2 Ban thực sự rất
cần thiết trong tổ chức của HĐND cấp xã để tham mưu cho HĐND xã, giúp HĐND xã
thực hiện nhiệm vụ trên 2 mảng lĩnh vực chuyên sâu. Để khắc phục khó khăn do
mới thành lập, thành viên chưa có kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ, chưa được
đào tạo chuyên sâu về hai mảng phụ trách, khi tham gia hoạt động của Ban nhưng
không có phụ cấp… nên đòi hỏi thành viên các Ban phải nhận thức đầy đủ trách
nhiệm của mình, xử lý tốt các mối quan hệ công tác để dành thời gian, tích cực,
tự giác, chủ động lên kế hoạch trau dồi, học hỏi kỹ năng thẩm tra, giám sát
chuyên đề; tranh thủ học hỏi kinh nghiệm của các đại biểu HĐND cấp huyện, cấp
tỉnh được bầu trên địa bàn, chủ động nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản trong
quản lý các lĩnh vực mà mình phụ trách.
Ba là, cần tăng cường tổ chức
tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, trao đổi kinh nghiệm cho các cơ quan, các đại biểu
HĐND cấp xã.
Khóa bồi dưỡng kiến thức cho đại
biểu HĐND các cấp đang được triển khai trên địa bàn tỉnh Nam Định bước đầu đã
có những phản hồi tích cực từ phía các đại biểu HĐND, giúp các đại biểu nhận
thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về vị trí vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, các hình thức hoạt động cụ thể của HĐND, của đại biểu HĐND cấp xã. Các
khóa bồi dưỡng này cần tiếp tục duy trì hai năm một lần. Ngoài ra, cần sớm tổ
chức việc bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng thẩm tra, giám sát cho thành viên các
Ban HĐND cấp xã.
Các đại biểu ở 2 Ban ngoài được
tập huấn kỹ năng rất cần có những chia sẻ kinh nghiệm trực tiếp từ các Ban HĐND
huyện, tỉnh. Đối với đại biểu trẻ, đại biểu là quần chúng, đại biểu lần đầu
tham gia còn yếu một số kỹ năng cần tích cực tham gia vào các hoạt động thực
hiện thẩm quyền của HĐND cấp xã; cần bố trí cho các đại biểu này tham gia các
hoạt động của đại biểu HĐND huyện, nhất là hoạt động của HĐND tỉnh, Đoàn Quốc
hội tỉnh được tổ chức tại địa phương như các cuộc tiếp xúc cử tri, tiếp công
dân, Đoàn giám sát… để học hỏi kinh nghiệm.
Bốn là, HĐND tỉnh cần quyết
liệt trong chỉ đạo các cấp ngân sách chủ động bố trí nguồn ngân sách bảo đảm
các chế độ chính sách cho HĐND cấp xã. Trên cơ sở dự toán chi cho các hoạt động
của HĐND cấp xã theo quy định, hàng năm, HĐND tỉnh có thể quyết định dành riêng
nguồn ngân sách để phân bổ trực tiếp về cho HĐND các xã trên toàn địa bàn.
Qua tìm hiểu về tổ chức và hoạt
động của HĐND cấp xã trên địa bàn tỉnh Nam Định đã xuất hiện những khó khăn ban
đầu. Dưới góc độ nghiên cứu xin đề xuất một số giải pháp nêu trên. Trong thời
gian sớm nhất, các cơ quan liên quan cần chủ động triển khai những biện pháp cụ
thể này giúp HĐND cấp xã tháo gỡ các khó khăn. Với quyết tâm chính trị, với
năng lực và không ngừng tự hoàn thiện kỹ năng của mỗi đại biểu, hy vọng HĐND
cấp xã trên địa bàn tỉnh Nam Định nhiệm kỳ này sẽ phát huy cao độ vai trò của
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đưa ra các quyết định đóng góp tích
cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, xứng đáng với vai
trò của người đại diện, người bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân
địa phương, đáp ứng sự kỳ vọng của các nhà hoạch định chính sách và niềm tin
của nhân dân địa phương./.
PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC VÀ CHỦ ĐỘNG
CỦA ĐOÀN
VIÊN – GIẢNG VIÊN TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CN. TRẦN THUỲ DƯƠNG
Giảng viên khoa lý luận Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Giảng dạy và hoạt động nghiên cứu khoa học là một
trong những nhiệm vụ chủ yếu của trường Chính trị tỉnh, muốn dạy tốt không thể
tách rời công tác nghiên cứu. Lý luận liên hệ thực tiễn không chỉ dừng lại ở
những ví dụ rời rạc trong đời sống hàng ngày mà phải đi từ cuộc sống thực tiễn,
điều tra, nghiên cứu, có kết luận, đánh giá chính xác thực chất của vấn đề trên
cơ sở khoa học. Muốn đạt được điều đó phải nghiên cứu thực tiễn, nghiên cứu
khoa học, thông qua các đề tài khoa học cụ thể. Bước sang năm 2017, Đoàn viên đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, với
tinh thần “Phát huy tính tích cực
và chủ động của đoàn viên trong nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy của giảng viên trẻ nhà trường”.
Đoàn viên thanh niên trong nhà trường đều có tinh thần ham học hỏi và nỗ
lực tham gia các hoạt động. Với trình độ học vấn khá đồng đều, gần
100% tốt nghiệp các trường đại học, nhiều đoàn viên là thạc sỹ và tốt nghiệp từ
nhiều trường đại học có uy tín thì đây là cơ sở quan trọng để các đoàn viên
thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.
Nhận thức sâu sắc được tầm
quan trọng, ý nghĩa của hoạt động nghiên cứu khoa học, trong những năm gần đây,
Đảng ủy, Ban Giám đốc và Đoàn trường đã tập trung chỉ đạo công tác nghiên cứu
khoa học đã đạt được những kết quả bước đầu. Nếu như những năm trước, số lượng
các đề tài cấp trường, cấp khoa do đoàn viên trẻ làm chủ nhiệm đề tài còn dè
dặt thậm chí là không có hoặc chỉ tham gia với tư cách là thành viên đề tài thì
năm nay một số đoàn viên đã mạnh dạn đăng ký làm chủ nhiệm đề tài cấp trường
như: Đề tài “Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới”
của đồng chí Vũ Quốc Mạnh – Bí thư Đoàn; Đề tài “Phát triển đội ngũ cán bộ nữ
lãnh đạo quản lý cấp xã ở các huyện ven biển tỉnh Nam Định giai đoạn hiện nay”
của đồng chí Trần Thị Huyền Nga; Đề tài: “Công tác phát triển Đảng trong đồng
bào công giáo ở các huyện có đông đồng bào công giáo tỉnh Nam Định giai đoạn
hiện nay” của đồng chí Đàm Cao Thượng. Ngoài ra, các đoàn viên trẻ cũng rất
tích cực trong việc viết bài đăng trang Website và nội san nhà trường. Số lượng
bài của đoàn viên trong các nội san nhà trường đều chiếm khoảng 1/3 tổng số
bài. Các đoàn viên cũng đã chủ động tham gia và viết bài cho các hội thảo khoa
học cấp khoa, cấp trường. Một trong những thành công đáng ghi nhận của Đoàn
thanh niên nhà trường trong đầu năm đó là đã tổ chức thành công Hội thảo với
chủ đề: “Lựa chọn và sử dụng một số phương pháp giảng dạy tích cực trong chương
trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính”, đa số các bài viết của đoàn
viên đều được đánh giá cao.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của các đoàn viên
Trường Chính trị Trường Chinh đã đạt được kết quả bước đầu, song vẫn còn nhiều
hạn chế và chưa tương xứng với năng lực và nhiệt huyết của tuổi trẻ như:
Việc tham
gia nghiên cứu khoa học của lực lượng đoàn thanh niên còn khá khiêm tốn so với
tiềm năng hiện có. Số lượng đề tài và bài báo khoa học do đoàn thanh niên chủ
trì nghiên cứu còn rất ít; Một số đoàn viên thanh niên đăng ký đề tài nghiên
cứu nhưng công tác chuẩn bị còn sơ sài, trùng lặp ý tưởng, ít sáng tạo nên
không được phê duyệt.
Một số đồng chí còn chưa chủ động xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học,
chưa chuyên cần nghiên cứu tài liệu, trau đồi các kĩ năng và cách thức tiến
hành nghiên cứu khoa học; một số khác còn e ngại, chưa mạnh dạn viết bài đăng
trên trang thông tin điện tử và nội san của trường.
Các đoàn viên còn chưa chủ động viết bài đăng báo, tạp trí Trung ương, địa
phương.
Từ thực trạng nêu trên, tôi xin đóng góp một vài đề xuất để phát huy tính
tích cực và chủ động trong công tác nghiên cứu khoa học của đoàn viên trong nhà
trường như sau:
Một là, Đảng ủy, Ban Giám đốc cần tăng cường hơn nữa sự
chỉ đạo đối với Đoàn thanh niên, nhất là trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
Hai là, mỗi đoàn viên cần
chủ động xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học cho từng năm và những năm tiếp
theo để có thể chủ động trong việc nghiên cứu, tìm tài liệu viết bài, tránh
tình trạng thụ động đến thời hạn nộp bài mới viết sẽ dẫn đến tình trạng viết
chống đối, không đủ dữ liệu để viết, v.v. làm cho bài nghiên cứu chất lượng
không cao.
Ba là, bên cạnh những điều
kiện thuận lợi mà Đảng ủy, Ban Giám đốc đã dành cho đoàn thanh niên, các đồng
chí đoàn viên, thanh niên, nhất là các đoàn viên giảng viên cần tăng cường tinh
thần tự giác tìm hiểu, phấn đấu học tập nâng cao trình độ và tiếp thu kinh
nghiệm của các đồng chí đi trước để đẩy mạnh vốn tri thức và kỹ năng nghiên
cứu. Đẩy mạnh việc tự học và mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ cá nhân trong các cuộc
họp và thể hiện trên các bài viết khoa học để rèn luyện bản lĩnh nghiên cứu
khoa học. Công việc nghiên cứu là một công việc không dễ dàng, người nghiên cứu
phải có kiến thức chuyên môn, tự giác suy nghĩ, trăn trở tìm tòi cái mới hoặc
những điểm chưa hoàn thiện trong thực tế công việc chuyên môn của mình, của
đồng nghiệp để cải tạo thực tế. Là người nghiên cứu, có tri thức và kỹ năng
chưa đủ, chúng ta còn cần rèn luyện cho mình bản lĩnh trong nghiên cứu. Có bản
lĩnh nghiên cứu của riêng mình, để dám dũng cảm trình bày ý tưởng cá nhân, tìm
lý lẽ bảo vệ ý tưởng của mình, biết lắng nghe và rèn luyện “thắng không kiêu,
bại không nản”, hiểu rằng “thất bại là mẹ của thành công”.
Bốn là, ngoài việc tự học, Đoàn thanh niên có thể hình
thành các nhóm cùng tiến trong nghiên cứu, phát huy lợi thế của làm việc nhóm.
Trên cơ sở chung định hướng nghiên cứu chuyên sâu để hình thành các đôi, các
nhóm làm việc ăn ý, tự nguyện, chủ động phối hợp với nhau, những người có năng
lực, kinh nghiệm nghiên cứu giúp đỡ những người còn thiếu kinh nghiệm.
Năm là, mỗi thành viên trong chi đoàn cần nhận thức và
chủ động học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện sửa đổi cách làm
việc, quét sạch chủ nghĩa cá nhân để rèn luyện nhân cách và chuyên môn nghiệp
vụ, làm cơ sở để đạt được những thành công trong tương lai.
Là đoàn viên của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trường Chính trị
Trường Chinh, tôi mạnh dạn chia sẻ một số suy nghĩ của bản thân về những ưu
điểm, hạn chế đối với chúng ta trong công tác nghiên cứu khoa học, những yêu
cầu đặt ra cho Đoàn và một số đề xuất để phát huy vai trò xung kích của đoàn
viên thanh niên trong nghiên cứu khoa học./.
XÂY DỰNG VỊ TRÍ VIỆC LÀM VÀ CƠ CẤU
NGẠCH CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TỈNH NAM ĐỊNH
- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ThS, GVC. HOÀNG THỊ CHÂU YÊN
Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị
Thực hiện Công văn số 359/BTCTU,
ngày 12/12/2016 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Nam Định, Trường Chính trị Trường Chinh
xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, viên chức theo quy định tại
Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 của Chính phủ quy định về vị trí việc
làm trong đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư số 14/2012/TT-BNV, ngày
18/12/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 41/2012/NĐ-CP, ngày
08/5/2012 của Chính phủ để báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy phê duyệt.
Trong quá trình triển khai thực
hiện xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, viên chức Ban Giám đốc
đã thành lập Ban chỉ đạo và có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi thành viên
Ban chỉ đạo; tiến hành làm các bước đúng quy trình hướng dẫn.
Mỗi cán bộ, công chức, viên chức
đều có nhiệm vụ liệt kê, phân loại và đánh giá kết quả công việc bản thân thực
hiện kể cả công việc thường xuyên hoặc đột xuất. Trên cơ sở đó, lãnh đạo các
đơn vị khoa, phòng tổng hợp, thống kê công việc của viên chức khoa, phòng mình
tương ứng với chức năng, nhiệm vụ theo quy định tại Quy chế theo 3 nhóm: công
việc do viên chức lãnh đạo, quản lý đảm nhiệm, công việc do viên chức chuyên
môn, nghiệp vụ đảm nhiệm và công việc hỗ trợ, phục vụ (Có tính cả các chức
danh, chức vụ đang đảm nhiệm tại các tổ chức chính trị xã hội trong nhà
trường). Qua đó, mỗi khoa, phòng đánh giá được thực trạng đội ngũ viên chức, sự
phù hợp hay chưa phù hợp trong bố trí, sử dụng viên chức, mức độ hoàn thành
nhiệm vụ của mỗi viên chức; xác định được cụ thể tên vị trí việc làm và khung
năng lực đặt ra cho mỗi vị trí việc làm. Trên cơ sở danh mục vị trí việc làm và
khung năng lực tương ứng, trưởng khoa, phòng chỉ đạo từng viên chức của đơn vị
xây dựng bản mô tả công việc, quy trình thực hiện, thời gian thực hiện và sản
phẩm của công việc.
Kết quả xây dựng vị trí việc làm
của từng đơn vị khoa, phòng là căn cứ để bộ phận tham mưu giúp việc tổng hợp hoàn
chỉnh xây dựng đề án vị trí việc làm cơ cấu ngạch công chức, viên chức toàn cơ
quan.
Quá trình xây dựng Đề án nhận
thấy Trường Chính trị Trường Chinh trong những năm qua khi tuyển dụng, bố trí
và sử dụng viên chức đã căn cứ vào các điều kiện, tiêu chuẩn được quy định
trong các văn bản của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, của Tỉnh ủy Nam
Định,…Trong đó, đặc biệt chú ý bố trí nhân sự vào vị trí việc làm đúng chuyên
ngành đào tạo và năng lực của viên chức. Đối với vị trí việc làm là giảng viên
trong những năm gần đây tối thiểu phải có bằng đại học chính quy, với chuyên
ngành phù hợp, đạt loại Khá trở lên, đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn được quy
định tại Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQGHCM, ngày 21/4/2016 của Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Đối với vị trí việc làm là cán bộ lãnh đạo, quản lý từ
cấp trưởng, phó phòng, khoa trở lên 100% đảm bảo đầy đủ các tiêu chí về công
tác cán bộ theo quy định tại Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 20/10/2016 của Tỉnh
ủy Nam Định về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp từ
nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, trong quá trình xây
dựng vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, viên chức của Trường Chính trị
Trường Chinh có một số vấn đề đặt ra:
Một là, cả tỉnh Nam Định chỉ duy nhất 02 cơ quan thuộc khối Tỉnh
ủy quản lý là Báo Nam Định và Trường Chính trị Trường Chinh xây dựng vị trí
việc làm và cơ cấu ngạch công chức, viên chức theo quy định tại Nghị định số
41/2012/NĐ-CP, ngày 08/5/2012 của Chính phủ quy định về vị trí việc làm trong đơn
vị sự nghiệp công lập; Thông tư số 14/2012/TT-BNV, ngày 18/12/2012 của Bộ Nội
vụ. Các Ban xây dựng Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
thực hiện theo Hướng dẫn 04-HD/BTCTƯ, ngày 12/9/2016 của Ban Tổ chức Trung ương
nên 02 đơn vị này không được tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về kỹ năng xây dựng
Đề án vị trí việc làm mà bộ phận tham mưu, giúp việc phải tranh thủ sự giúp đỡ
trực tiếp của Tổ giúp việc Ban chỉ đạo của tỉnh và tự nghiên cứu văn bản để
thực hiện.
Hai là, xây dựng vị trí việc làm tại thời điểm năm 2017 nên phải
căn cứ vào các văn bản pháp lý hiện hành quy định về việc thành lập, chức năng,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức, chức danh nghề nghiệp, cơ cấu viên chức và số lượng
người làm việc trong Trường Chính trị Trường Chinh. Cụ thể là: Quyết định số
184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư Trung ương (Khóa X) quyết định chức
năng nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy của trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Quyết
định số 339-QĐ/TU, ngày 05/1/2012 của Tỉnh ủy Nam Định phê duyệt chức năng,
nhiệm vụ chức bộ máy của Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định; Thông báo
số 180-TB/BTCTU, ngày 06/01/2017 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy. Quyết định số
1855/QĐ-HVCTQGHCM, ngày 21/4/2016 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh…Mục đích của xây dựng vị trí việc làm nhằm rà soát, làm rõ chức năng,
nhiệm vụ từng cơ quan xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu quả, có tính ổn định; góp
phần tinh giản biên chế một cách hợp lý; là căn cứ để định biên, chỉ tiêu thi
nâng ngạch, đánh giá và sử dụng công chức, viên chức,…Như vậy, khi căn cứ là
các văn bản pháp lý hiện hành thay đổi thì tính ổn định tương đối của Đề án sẽ
phải thay đổi theo. Sắp tới tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định số 184-QĐ/TW,
ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư Trung ương
(Khóa X) quyết định chức năng nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy của trường Chính trị
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chắc chắn Đề án đã phải sửa đổi luôn.
Ba là, xây dựng vị trí việc làm tại thời điểm năm 2017, định
biên hiện nay của nhà trường theo Thông báo số 180-TB/BTCTU, ngày 06/01/2017
của Ban Tổ chức Tỉnh ủy là 60 biên chế và hiện tại toàn bộ cán bộ, viên chức,
nhân viên của nhà trường là 56 biên chế,
thiếu 4 biên chế. Nhưng lại phải căn cứ vào Nghị quyết 39-NQ/TƯ, ngày 17/4/2015
của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên
chức, theo đó đến 2021 mỗi cơ quan giảm tối thiểu 10% biên chế. Đồng nghĩa với
việc nếu Đề án được phê duyệt thì định biên từ năm 2018 đến năm 2021 và những
năm tiếp theo chỉ là 54 biên chế, điều này gây khó khăn không nhỏ trong việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Bốn là, do lịch sử để lại, vị trí việc làm thuộc nhóm công việc
hỗ trợ, phục vụ hiện tại của nhà trường là tương đối nhiều so với tổng biên
chế. Tính đến 01/8/2017 có 15 viên chức, nhân viên không mang mã ngạch giảng
viên, trong đó có tới 6 nhân viên Hợp đồng 68. Để nâng cao chất lượng đội ngũ,
mục tiêu hướng tới giảm số người làm việc trong nhóm vị trí việc làm công việc
hỗ trợ phục vụ, tăng cường đội ngũ giảng viên và tương đương. Việc xem xét tinh
giản biên chế đối với từng viên chức, nhân viên cũng là vấn đề phải cân nhắc.
Năm là, khi xây dựng vị trí việc làm phải gắn với cơ cấu ngạch
công chức, viên chức. Hiện tại theo Đề án xây dựng những chức danh lãnh đạo,
quản lý từ trưởng, phó khoa phòng, Phó Giám đốc phải là giảng viên chính và
tương đương, Giám đốc là giảng viên cao cấp và tương đương. Vậy khi xét điều
kiện tiêu chuẩn để bổ nhiệm các chức vụ này cho cán bộ thì ngạch viên chức có
phải là một điều kiện bắt buộc không? Hay khi đã được bổ nhiệm các chức vụ này
là điều kiện thuận lợi để được bổ nhiệm vào ngạch viên chức tương ứng.
Cùng với đó những vị trí việc làm
gắn với hoạt động chuyên môn nghề nghiệp: người có ngạch giảng viên và tương
đương mà không có chức vụ nếu đã đủ điều kiện tiêu chuẩn theo Quy định của Học
viện tại Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQGHCM, ngày 21/4/2016 của Giám đốc Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì có được tham gia thi tuyển hoặc xét tuyển
nâng ngạch viên chức không? Quan điểm cá
nhân tôi, đối với đơn vị sự nghiệp công lập có chức năng chuyên sâu về đào tạo
bồi dưỡng cán bộ không phải là cơ quan quản lý hành chính nhà nước nên việc
nâng ngạch viên chức không nhất thiết phụ thuộc vào chức vụ.
Chính việc chưa có sự rõ ràng
trong xác định ngạch viên chức tương ứng với vị trí việc làm như trên và do
chưa xác định được cụ thể thời hạn thực hiện Đề án nên việc xác định số lượng
người làm việc trong một ngạch viên chức cũng còn lúng túng chưa có cơ sở.
Sáu là, số lượng người giữ vị trí việc làm trong nhóm cán bộ
lãnh đạo, quản lý hiện tại quá so với Đề án 01 người. Đến thời điểm bổ nhiệm
lại cán bộ thì có tiến hành làm quy trình bổ nhiệm lại không, trong khi cán bộ
đó vẫn đủ các điều kiện tiêu chuẩn hiện hành để bổ nhiệm lại.
Có thể khẳng định việc xây dựng
Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, viên chức là việc làm hết sức
cần thiết, là căn cứ để tuyển chọn, bố trí sử dụng và đánh giá cán bộ, là cơ sở
để thực hiện tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết 39-NQ/TƯ, ngày
17/4/2015 của Bộ Chính trị. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều vấn đề đang đặt ra đòi
hỏi các cấp có thẩm quyền có chỉ đạo, hướng dẫn sát sao hơn nữa để Đề án khi đã
được phê duyệt thực sự phát huy tính khả thi, đồng bộ và hiệu quả./.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, tập 10,
tr 252-253
Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần II, Sđd, tr. 149
Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1991, tr. 11
C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.22, tr.775
Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, T.8, tr. 276
|