BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC
Chủ đề: “LIÊN MINH CÔNG - NÔNG - TRÍ THỨC
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở NÔNG THÔN TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”
Ths. Hoàng Đức
Hợp
Trưởng khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Kính thưa các
đồng chí đại biểu!
Thưa các nhà
khoa học!
Thưa toàn thể
các đồng chí!
Thực
hiện Nghị quyết số 06 - NQ/ĐUngày 24 tháng 3
năm 2016 của Đảng ủy trường Chính trị Trường Chinh về nâng cao chất lượng
giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính trị Trường Chinh
và kế hoạch hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế năm 2018 của nhà
trường.
Nhằm
nâng cao kiến thức lý luận và thực tiễn cho đội ngũ giảng viên, đáp ứng yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường , đồng thời làm rõ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn làm luận cứ khoa học cho đề tài khoa học cấp trường năm 2018.
Hôm
nay Khoa
lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học cấp
Khoa với chủ đề: “Liên minh
công - nông - trí thức trong phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn tỉnh
Nam Định hiện nay - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn”.
Kính thưa các đồng chí đại biểu và toàn
thể các đồng chí!
Liên
minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức Việt Nam là
một nguyên tắc chiến lược cách mạng, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Đảng ta khẳng định rõ: “Đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược
của cách mạng... là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”.
Thành tựu của hơn 30 năm đổi mới đất
nước có được chính là nhờ Đảng ta luôn luôn vận dụng và quán triệt sâu sắc
nguyên tắc chiến lược cách mạng của liên minh. Hiện nay, đất nước đang bước vào
thời kỳ hội nhập sâu rộng, những điều kiện kinh tế- xã hội trong và ngoài nước
đang tác động rất mạnh mẽ đến khối liên minh, bên cạnh những thuận lợi trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức thì chúng ta
đang gặp phải rất nhiều khó khăn và thách thức.
Đối với nước ta, một đất nước có tới 23 triệu
người làm trong nông nghiệp, vai trò của kinh tế nông nghiệp, nông thôn hết sức
quan trọng trong việc nâng cao đời sống nhân dân và ổn định chính trị, xã hội.
Sớm nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng sâu sắc của việc phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn vì vậy trong tất cả các nghị quyết Đại hội, Đảng ta luôn
luôn xác định: một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong đó có công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn. Đặc biệt tại Đại hội XII lại một lần nữa chúng ta nhấn mạnh đây
chính là một trong bốn trọng tâm mà chúng ta cần phải làm: “ …đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới”.
Nam Định là một tỉnh có lợi thế cho
sản xuất nông nghiệp, 70% dân số sống bằng nghề nông, với điều kiện thiên nhiên
ưu đãi. Nam Định có nền nông nghiệp phát triển với nhiều loại nông sản nổi tiếng.
Với nhiều mô hình liên kết trong sản xuất trong sản xuất nông nghiệp, nhiều
cánh đồng mẫu lớn, các trang trại chăn nuôi quy mô lớn tại các huyện Ý Yên,
Giao Thủy, Hải Hậu... các cụm công nghiệp
đặt tại các xã của các huyện Vụ Bản, Xuân Trường, Nghĩa Hưng, Mỹ Lộc… góp phần
không nhỏ cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn tại các địa phương
nói riêng và của cả tỉnh Nam Định nói chung.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển
sản xuất nông nghiệp của tỉnh đã gặp không ít khó khăn như: tỷ lệ cơ giới hóa
trong nông nghiệp thấp, sản xuất mang tính tự phát, đầu tư và ứng dụng khoa học
công nghệ chậm, dàn trải, sản phẩm nông nghiệp tính cạnh tranh chưa cao, tỷ lệ
nguồn lực lao động nông nghiệp qua đào tạo thấp, cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp
chưa được đầu tư đồng bộ, đúng mức v.v...
nguyên nhân của những hạn chế trên đó chính là do sự liên kết của công -
nông- trí thức chưa chặt chẽ, sự liên kết mang tính hình thức, mà liên kết trong sản xuất chính là xu thế tất yếu của nền
nông nghiệp hiện đại.
Nghị Quyết Đại hội lần thứ XIX của Đảng
bộ Nam Định chúng ta cũng xác định: “Phấn đấu đến năm 2020, Nam Định là tỉnh
nông thôn mới, có nền công nghiệp phát triển nhanh theo hướng hiện đại”, đây
cũng chính là mục tiêu thể hiện sự gắn kết, phát huy sức mạnh của khối liên
minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức của tỉnh
nhà. Bài học thực tế cho thấy xây dựng nông thôn mới chỉ trở thành hiện thực
khi xây dựng được khối liên minh này một cách vững chắc.
Xuất
phát từ yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, đồng thời nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Được sự nhất trí của Hội đồng khoa học nhà
trường, khoa Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học
cấp trường với chủ đề: “Liên minh
công - nông - trí thức trong phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn tỉnh
Nam Định hiện nay - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn”.
Kính thưa các đồng chí đại biểu và toàn
thể các đồng chí
Hội
thảo là một trong những hoạt động thường xuyên của giảng viên trong khoa nhằm
làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đang diễn ra hiện nay. Với những yêu cầu
ở trên buổi hội thảo hôm nay chúng tôi sẽ tập trung vào một số nội dung cơ bản
sau:
Thứ nhất: Làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn của liên minh giai cấp công - nông - trí thức thông qua nghiên
cứu lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Thứ hai: Phân
tích thực trạng của khối liên minh công -
nông - trí thức trong phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn tỉnh Nam Định
gắn với thực trạng liên minh này ở nước ta hiện nay.
Thứ ba: Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm tăng cường liên minh công
- nông - trí thức trong phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn tỉnh Nam Định giai đoạn tới.
Kính thưa
các đồng chí đại biểu và toàn thể các đồng chí
Tôi tin tưởng rằng với thái độ
làm việc nghiêm túc của các đồng chí giảng viên trong khoa, với những
bài tham luận sẽ làm
rõ được một phần nào đó nội dung được đưa ra ở trên. Bên cạnh đó Khoa lý luận
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh rất mong nhận được những ý kiến từ các nhà
khoa học và các đồng chí tham dự hôm nay nhằm củng cố thêm kiến thức lý luận và
thực tiễn phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học của Khoa lý luận Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kính chúc sức
khỏe các nhà khoa học và toàn thể các đồng chí!
Chúc hội thảo
thành công tốt đẹp!
Xin chân thành cảm ơn!
TÍNH TẤT YẾU CỦA LIÊN MINH
CÔNG - NÔNG - TRÍ THỨC
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP NÔNG THÔN
Nguyễn Thị
Hiệp
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh
Lý luận về liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức cùng với đoàn kết với các tầng lớp lao động
khác là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp. Hiện nay, vấn đề liên minh công
nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại
hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải
“Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo” (Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội,
2016, tr. 158), để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết
dân tộc.
Liên
minh công – nông – trí thức vừa là một quy luật khách quan vừa là vấn đề mang
tính chiến lược của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đây là vấn đề mang tính tất
yếu, khách quan, hợp quy luật. Điều này dựa trên những điểm cơ bản
sau:
Thứ
nhất, xuất phát từ lý luận của
chủ nghĩa Mác- Lênin về liên minh
Xuất
phát từ yêu cầu khách quan của quá trình sản xuất trong xã hội tất yếu hình
thành nên các lĩnh vực cơ bản: công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ,
dịch vụ… thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu khách quan phải
gắn kết chặt chẽ các lĩnh vực này với nhau để hình thành nền quốc dân thống nhất
và tạo cơ sở vật chất- kỹ thuật cần thiết cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Mặt
khác là một nước nông nghiệp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên nông
nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng của nền kinh tế, do đó phải coi trọng phát triển
nông nghiệp trong sự gắn bó khăng khít với công nghiệp và khoa học- công nghệ.
Đến lượt mình khoa học công nghệ cũng chỉ phát triển được khi hướng tới phục vụ
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì
vậy nông nghiệp, công nghiệp, khoa học và công nghệ phải liên kết chặt chẽ với
nhau không thể tách rời tạo thành nền cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Lênin đã chỉ ra rằng muốn quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước lạc hậu thì cần có điều kiện
là phải có sự liên minh giữa giai cấp công nhân với đại đa số nông dân. Trong
điều kiện chưa có sự giúp đỡ kịp thời của cách mạng vô sản thế giới thì sự liên
minh giữa công nhân và nông dân càng có ý nghĩa quan trọng sống còn.
Thứ
hai, từ hướng đi bền vững của nền
nông nghiệp hiện nay đó là sản xuất theo chuỗi giá trị.
Chuỗi
giá trị trong sản xuất nông nghiệp gồm những công đoạn chính là: sản xuất, thu
mua và tiêu thụ sản phẩm.
Có
thể thấy, trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, xây dựng và
phát triển chuỗi giá trị nông sản là xu hướng tất yếu, là nhân tố
quan trọng thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, giúp ngành nông nghiệp
tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền
vững.
Ở nước ta trong những năm qua, sản xuất chủ yếu
vẫn là nhỏ, lẻ, với phương thức nông hộ, mạnh ai người ấy làm, sản phẩm dưới dạng
sơ chế, không có nhãn hiệu, ít có sự liên kết tổ chức sản xuất, chế biến theo
chuỗi giá trị gắn với nhu cầu của thị trường tiêu thụ điệp khúc được mùa mất
giá lặp đi lặp lại. Những mối liên kết còn lỏng lẻo, đặc biệt là mối liên kết
giữa doanh nghiệp và nông dân để tạo ra các chuỗi giá trị nông sản hàng hóa lớn
còn hạn chế. Vai trò chính yếu của Nhà nước trong chuỗi giá trị vẫn còn hết sức
mờ nhạt. Chính các yếu tố này đã làm cho nền nông nghiệp Việt Nam rất dễ bị tổn
thương và kém sức cạnh tranh trên thị trường.
Trong bối cảnh đó để tiêu thụ các sản phẩm
nông nghiệp hàng hóa đảm bảo phát triển bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh
trong điều kiện hội nhập quốc tế và phù hợp với cơ chế thị trường, không có con
đường nào khác là cần phải tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị với một quy
trình khép kín “đầu vào - sản xuất - đầu ra”, an toàn vệ sinh thực phẩm.
Như
vậy chuỗi giá trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và nếu
chúng ta không xây dựng thành công chuỗi giá trị sẽ khó cạnh tranh, đủ năng lực
đưa các sản phẩm trong nước ra thị trường quốc tế.
Trong liên kết chuỗi giá trị, việc ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp với việc doanh nghiệp làm đầu mối đóng vai trò
chính đang được chứng minh là mô hình phù hợp trong sản xuất nông nghiệp hiện đại.
Trong chuỗi giá trị này, doanh nghiệp sẽ kiểm soát được chất lượng sản phẩm tốt
hơn. Khi quy hoạch vùng sản phẩm, doanh nghiệp, nhà nông sẽ thuận lợi hơn và khi
ứng dụng khoa học công nghệ theo quy mô lớn, giúp tăng giá trị sản phẩm và nâng
cao lợi nhuận.
Do có sự liên kết chặt chẽ trong từng khâu sản
xuất, chuỗi giá trị không những đem lại hiệu quả kinh tế lớn mà nó còn góp phần
vào việc cung cấp những sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng
tốt hơn.
Thứ
ba, xuất phát từ nhiệm vụ CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện
nay
Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta luôn coi “Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” như Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã khẳng định.
Những năm qua CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã có những
bước tiến quan trọng. Bộ mặt nông thôn thay đổi, nông nghiệp phát triển theo hướng
bền vững, hệ thống chính trị cơ sở khu vực nông thôn từng bước được củng cố.
Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao, trên 3%/năm, theo hướng sản
xuất hàng hóa; năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp không ngừng
nâng cao; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng nông sản
xuất khẩu, như gạo, cà-phê, cao-su... chiếm vị trí cao trên thị trường thế giới.
Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày
càng được cải thiện.
Tuy nhiên, nông
nghiệp, nông thôn nước ta vẫn chậm phát triển, phát triển thiếu bền vững: đầu
tư cho nông, lâm nghiệp, thủy sản chưa tương xứng với vị trí, vai trò của các
ngành kinh tế này; mô hình tổ chức, quản lý sản xuất chưa ổn định, cơ cấu kinh
tế còn thuần nông, công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chưa tương xứng,
nên sức ép về việc làm ở nông thôn vẫn rất lớn, thị trường nông thôn yếu kém
tác động tiêu cực đến “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất nông nghiệp, một số
chính sách của Nhà nước lại chưa đủ mạnh để kích thích sản xuất nông nghiệp
phát triển, do đó, năng suất lao động, sức cạnh tranh của hàng nông sản thấp...
Tất cả những điều
đó làm cho nông nghiệp, nông thôn có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với công nghiệp,
dịch vụ ở thành thị. Vì vậy, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa là đòi hỏi cấp
bách của thực tiễn, vừa là con đường ngắn nhất để đưa nông nghiệp, nông thôn nước
ta thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện nay để phát triển sản xuất hàng hóa,
tăng năng suất lao động, cải thiện đời sống của cư dân nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn hiện nay phải củng cố mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông
dân, nông thôn theo hướng: nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng
nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô
thị theo quy hoạch là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp
là then chốt.
Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật và kinh tế - xã hội
để cải biến nền kinh tế nông nghiệp còn kém phát triển thành nền kinh tế có cơ
cấu ngày càng hợp lý trên cơ sở lao động sử dụng máy móc và kỹ thuật, công nghệ
ngày càng tiên tiến. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo nền tảng, cơ sở vật chất
kỹ thuật cho việc xác lập, củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa và củng cố hệ thống chính trị, tăng cường an ninh quốc phòng ở khu vực
nông thôn...Đây chính là quá trình tăng cường sự gắn kết giữa các ngành nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đồng thời tạo môi trường liên kết chặt chẽ giữa
các chủ thể trong khối liên minh này.
Như
vậy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức là nòng cốt của
khối đại đoàn kết dân tộc, là trọng tâm trong phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn. Đó không phải là ý muốn chủ quan mà là một tất yếu khách quan do điều
kiện lịch sử kinh tế xã hội quy định. Muốn cho khối liên minh đó ngày càng phát
huy được tác dụng mạnh mẽ, thì Đảng và Nhà nước phải kịp thời ban hành và thực
thi các chính sách nhằm tăng cường sự thống nhất về lợi ích giữa các giai cấp,
nhằm đảm bảo cho sự bền vững của khối liên minh này trong kinh tế nông
nghiệp nông thôn./.
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH
HỒ CHÍ MINH VỀ LIÊN MINH
CÔNG - NÔNG - TRÍ THỨC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
Nguyễn
Thị Huyền
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội
ngũ trí thức là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớp trong một chỉnh thể thống
nhất, nhằm giúp đỡ lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù
do bản chất, vai trò của mỗi giai cấp và tầng lớp trong cách mạng và xã hội quy
định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ thuộc vào chất lượng của
từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố, tăng cường khối liên minh giai cấp
công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức gắn liền chặt chẽ với quá trình xây
dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp do Đảng lãnh đạo, tạo thành nhân tố
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ,
khi nước ta bước vào xây dựng chế độ XHCNđã có những chuyển biến quan trọng về
vị thế của các giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức. Công nhân là
người chủ tập thể của các xí nghiệp, là giai cấp lãnh đạo nước nhà. Nông dân
không còn là nô lệ của địa chủ, không còn phải mơ ước có một “miếng đất cắm
dùi” như thời xưa. Nông dân là người chủ tập thể của hợp tác xã và là người bạn
trung thành nhất của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Trí thức
ta là những người lao động trí óc, luôn luôn hòa mình với công - nông và cùng
công-nông ra sức xây dựng xã hội mới.
Người khẳng định, CNXH là một
xã hội có nền kinh tế công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có nền văn hoá, khoa
học-kỹ thuật tiên tiến. Chính sự gắn bó khách quan giữa công nghiệp và nông
nghiệp trong một nền kinh tế thống nhất với sự phát triển của văn hoá, khoa
học-kỹ thuật là tiền đề khách quan tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa các giai
cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong quá trình phát triển.
Nền kinh tế XHCN chính là cơ
sở vững chắc của liên minh giai cấp công nhân và nông dân.Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế. Nông nghiệp
phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên
liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ,
đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy móc.Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung
cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung
cấp máy bơm nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và
cung cấp dần dần máy cấy, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp
phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên, “Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát
triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi
đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công-nông để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”.
Người nhấn mạnh,liên minh là phải giúp đỡ nhau thực sự, chứ không phải chỉ liên
minh cửa miệng.
Trong xây dựng CNXH, giai cấp
công nhân không chỉ cần liên minh với nông dân, mà còn phải liên minh với đội
ngũ trí thức, vì sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá và khoa học - kỹ thuật. “Cách mạng cũng cần có lực lượng của trí
thức (chúng ta quen gọi là lao động trí óc). Ví dụ: cần có thầy thuốc để săn
sóc sức khoẻ cho nhân dân; cần có thầy giáo để dạy văn hoá và đào tạo cán bộ;
cần có kỹ sư để xây dựng kinh tế, v.v.. Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng,
trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao động trí óc có vai trò quan trọng và vẻ
vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cơ
sở khách quan của mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa trí thức với toàn thể nhân
dân lao động. Dưới chế độ XHCN,khoa học là tài sản chung của toàn dân. Bởi vậy,
đội ngũ trí thức phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền
bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh thi đua sản xuất
nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Có như vậy nước mới giàu, dân mới mạnh và đời sống của
nhân dân mới được cải thiện về mọi mặt. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của đội ngũ trí
thức. Đội ngũ trí thức “phải là những
chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hoá và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài,
góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và
công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học,
lành mạnh và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang”.
Quan hệ giữa công nhân, nông
dân và trí thức là yếu tố nội tại trong kết cấu xã hội - giai cấp của CNXH. Xu
hướng hợp tác giữa các giai cấp và tầng lớp đó dựa trên những cơ sở khách quan,
không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của riêng giai cấp công nhân mà của cả
nông dân, trí thứcvà do đòi hỏi của sự nghiệp phát triển công nghiệp hiện đại,
nông nghiệp hiện đại và sự phát triển văn hóa, khoa học, công nghệ tiên tiến.
Trong khối liên minh, Hồ Chí
Minh xác định:giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, thông qua chính đảng của
mình đề ra đường lối cách mạng, chủ trương nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và tiến lên CNXH. Bằng hành động và các chính sách thực
tiễn, Đảng của giai cấp công nhân giác ngộ, thu hút giai cấp mình và mọi tầng
lớp lao động, trước hết là nông dân và trí thức về phía mình trong toàn bộ tiến
trình cách mạng, đặc biệt là trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên
minh công - nông - trí được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong các chặng đường
cách mạng. Trong tình hình mới, Đảng ta khẳng định rõ: “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”./.
LIÊN MINH CÔNG - NÔNG - TRÍ TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG THÔN THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Th.S Trần Thị Kim Thư
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh
Việt Nam
là đất nước có một nền nông nghiệp truyền thống lâu đời với hơn 60% dân số làm
nông nghiệp. Vì thế, dù ờ thời kỳ nào, người nông dân, nông thôn và kinh tế
nông nghiệp cũng có một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển chung
của đất nước. Nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng này, trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu là sớm đưa Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
chú trọng đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển
nông thôn. Ở nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cơ cấu kinh tế chung của cả nước
mà Đảng đã xác định là: “công- nông nghiệp- dịch vụ”. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế diễn ra theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hội nhập quốc tế;
từng bước phát triển kinh tế tri thức. Quan điểm trên đã thể hiện rõ nội dung
kinh tế của liên minh công – nông - trí trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Ở khu vực
nông thôn thì cơ cấu ngành kinh tế nông thôn thể hiện mối quan hệ tỷ lệ giữa
các ngành trong nông thôn bao gồm nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Việc xác lập những mối quan hệ hợp lý và gắn bó
hữu cơ giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế nông thôn. Đây
chính là môi trường gắn kết giữa công nhân, nông dân và trí thức lại với nhau.
Từ khi đổi mới đến nay, cơ cấu
kinh tế nông thôn nước ta có sự chuyển biến tích cực, nhưng nông nghiệp vẫn
chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
thôn ở một số nơi vẫn chưa thoát khỏi độc canh, thuần nông. Nông nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng lớn trong kinh tế nông thôn, các ngành nghề ngoài nông nghiệp
chưa đựợc phát triển. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế nông thôn còn bất hợp lý, hiệu
quả thấp, chưa khai thác hết mọi tiềm năng của đất nước và lợi thế sinh thái
của từng vùng cho sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế nông thôn. Do đó,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH là một tất yếu, cần
thiết để phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn, đáp ứng đòi hỏi ngày càng
cao của thị trường và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc ở nông thôn.
Sự phát
triển của nông nghiệp dù cố gắng đến mấy cũng không thể tự mình tạo ra sự thay
đổi căn bản về cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ và thiết bị để hiện đại hoá
sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng nhanh, mà cần phải có sự tác động mạnh mẽ của
công nghiệp, dịch vụ. Bằng con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra
các ngành nghề mới, từ đó làm chuyển đổi nền kinh tế thuần nông sang phát triển
kinh tế nông thôn tổng hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Chính quá trình CNH, HĐH sẽ tác động mạnh mẽ
đến cơ cấu kinh tế nông thôn, làm chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp và công
nghiệp nông thôn, đồng thời làm cho ngành dịch vụ dần dần được mở rộng và phát
triển đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống. Sự phát triển kinh tế nông thôn
với xu hướng nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn
trong cơ cấu kinh tế nông thôn thì lao động nông nghiệp càng giảm đi cả tương
đối và tuyệt đối. Hơn nữa, cùng với quá trình CNH, HĐH, sự phân công lao động ở
nông thôn sẽ diễn ra theo hướng hoà nhịp với sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh
tế quốc dân.
Điều đó
có nghĩa là sự phân công được diễn ra từ nội bộ nông nghiệp, nông thôn. Từ cơ
cấu sản xuất chủ yếu là trồng lúa sang trồng lúa, màu, cây công nghiệp và phát
triển công nghiệp, dịch vụ. Quá trình này gắn liền với sự chuyển dịch lao động
ra ngoài ngành nông nghiệp, phục vụ cho nhu cầu phát triển công nghiệp, dịch vụ
của nền kinh tế. Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu ngành và nội bộ ngành kinh tế
nông thôn là phải hướng tới một cơ cấu ngành hợp lý, đa dạng, trong đó cần phát
triển các ngành chủ lực có nhiều lợi thế để đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất
khẩu. Đồng thời phải kết hợp tối ưu giữa cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ
và cơ cấu các thành phần kinh tế ở nông thôn. Cho nên, để thúc đẩy sự chuyển
dịch nhanh chóng của cơ cấu các ngành kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH, cơ
cấu kinh tế nông thôn phải thay đổi theo hướng:
Thứ nhất, giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng tiểu thủ
công nghiệp, công nghiệp chế biến
và dịch vụ. Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp vừa tạo điều kiện để phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện, đáp ứng nhu cầu về nhiều loại sản phẩm nông
nghiệp của xã hội, vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng về nguyên liệu của
công nghiệp nhẹ và nhu cầu xuất khẩu. Sự hình thành những vùng chuyên canh quy
mô lớn sẽ cho phép ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất để
nâng cao năng suất và chất lượng nông sản, nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng hoá nông sản.
Tuy
nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh
tế xã hội. Việc nâng cao hiệu quả kinh tế phải đi đôi với giải quyết các vấn đề
bức xúc về mặt xã hội ở nông thôn như tạo công ăn việc làm, chống nghèo đói,
nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần...Mỗi bước phát triển kinh tế phải gắn
liền với giải quyết và thực hiện công bằng xã hội ở nông thôn
Thứ hai, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn còn phải thực hiện yêu cầu kết hợp giữa phát
triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới văn minh, dân chủ, hiện đại.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phải đặt trong điều kiện cơ chế
thị trường. Trong cơ chế này, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều chịu sự chi
phối của các quy luật thị trường. Do đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
không được chủ quan duy ý chí, mà phải đặc biệt chú ý đến những nhân tố khách
quan như: khả năng về vốn, công nghệ, thị trường...
Có thể
thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là một quy luật có tính phổ biến
trong phát triển của tất cả các quốc gia. Còn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận hợp thành, nằm trong tổng thể quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Song nó có vị trí đặc biệt quan trọng,
tầm ảnh hưởng sâu rộng cả về kinh tế và xã hội, cũng như những đặc thù của khu
vực nông nghiệp, nông thôn đã tạo nên những nét đặc thù về mục tiêu, nội dung,
con đường, bước đi và các giải pháp thực hiện quá trình này, bởi thành công ở
khu vực này có tác động tạo nền tảng và thúc đẩy nhanh, có hiệu quả và bền vững
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; ngược lại, sự trục trặc
trong khu vực này chắc chắn sẽ gây nên những tác động tiêu cực khôn lường cả về
kinh tế, chính trị và xã hội. Để làm tốt chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi sự liên minh công - nông - trí
thức càng sâu sắc hơn./.
LIÊN
MINH CÔNG - NÔNG - TRÍ THỨC
TRONG
VIỆC ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC
VÀ CÔNG
NGHỆ TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HIỆN NAY
TS. Đới Văn Tặng
Trưởng khoa Xây dựng Đảng
Các nhà
kinh điển Mác-xít đã khẳng định, một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản giành thắng lợi là sự tham gia của
đông đảo nhân dân, trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Song, để đông đảo nhân dân tham gia
vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản, Đảng Cộng sản phải vận động,
tổ chức và giác ngộ nhân dân, đưa họ vào các phong trào hành động cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhận thức sâu sắc điều này và từ thực tiễn cách mạng nước ta, trong cách mạng giải phóng dân tộc trước
đây, cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định phát huy sức mạnh toàn dân tộc, trên cơ
sở khối liên minh giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đó vừa là mục tiêu chiến lược, vừa là
động lực to lớn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Trong công cuộc đổi mới đất nước và
hội nhập quốc tế, Đảng ta đã xác định, công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện
đại, tao ra bước chuyển đổi căn bản toàn diện từ trạng thái sản xuất tự cung,
tự cấp, trình độ kỹ thuật, năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp sang trạng
thái sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn có chứa đựng những yếu tố của nền kinh
tế tri thức. Thực chất của vấn đề này là sự phản ánh trình độ phát triển mới của sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở
ứng dụng những thành tựu khoa hoc - công nghệ hiện đại, tiên tiến của thế giới
để hiện đại hóa đối tượng lao động, các phương tiện, biện pháp sản xuất, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa phương thức tổ chức sản xuất và
quản lý kinh doanh, tạo ra năng suất, chất lượng hàng hóa nông sản có giá trị
gia tăng cao và thân thiện với môi trường.
Với vị trí, vai trò quan trọng đó,
việc xác định đúng vai trò và mối quan hệ của các chủ thể trong quá trình ứng
dụng những tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất nông
nghiệp, không chỉ có ý nghĩa với việc tạo sự chuyển biến về chất trong đời sống
kinh tế - xã hội ở nông thôn, mà còn có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự
phát triển của đất nước.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ to lớn và lâu dài đó không chỉ là sự nghiệp của
riêng giai cấp nông dân và Nhà nước, mà là nhiệm vụ của mỗi cấp, mỗi ngành và cả
hệ thống chính trị có trách nhiệm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân trên cơ sở khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công
nhân là lực lượng tiền phong đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, là lực
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức. Như nghị quyết Hội nghị lần
thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng đã chỉ rõ “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh…tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của
dân tộc, nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới và những biến đổi của tình hình trong nước, có tinh thần đoàn kết dân tộc
và hợp tác quốc tế”. Đó là định hướng chiến lược xây dựng giai cấp
công nhân vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH đát nước và hội
nhập quốc tế, đại biểu trung thành lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong - Đảng
Cộng sản Việt Nam. Cùng với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác,
giai cấp nông dân luôn là lực lượng dân cư đông đảo nhất trong xã hội, họ giàu
lòng yêu nước và tinh thần cách mạng. Hơn tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, giai cấp nông dân luôn kề vai sát cánh, gắn bó máu thịt với giai cấp công
nhân và đội ngũ trí thức và trở thành động lực quan trọng đối với thắng lợi của
cách mạng nước ta. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, giai cấp nông
nhân là quân chủ lực của cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của
giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05-8-2008 về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong đó nhấn mạnh mục tiêu hướng tới là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, phát triển
hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó
khăn và Văn kiện Đại hội XI của Đảng tiếp tục xác định rõ phương hướng: “Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp
nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao
trình độ giác ngộ của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia
đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Hỗ trợ, khuyến
khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến
bộ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm
công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư
nông thôn; thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo, làm
giàu hợp pháp”.
Bên cạnh giai cấp công nhân,
nông dân trong tiến trình cách mạng, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin đã khẳng định vai trò quan trọng của tầng lớp trí thức trong xã hội và
nhấn mạnh: giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới
của mình khi liên minh với các giai cấp và tầng lớp lao động khác, mà trước hết
là với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và lãnh đạo họ tiến hành cuộc đấu
tranh cách mạng. Nhận thức rõ tư tưởng này, trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm lấy liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nòng cốt
của cách mạng. Để xây dựng nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, vấn đề
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc bảo
đảm nguồn lực con người lao động có chất lượng cao, mà còn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong phát huy khối đại đoàn kết xây dựng và phát triển đất nước.
Trước yêu cầu khách quan đó, Đảng ta đã
ban hành nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X
về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”, trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của
dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư
cho phát triển bền vững”.
Đây là quan điểm có ý nghĩa quan trọng cả trước mắt và lâu dài vì sự phồn
vinh của đất nước.
Trước yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng
hóa theo hướng hiện đại, bền vững ở nước ta trong thời gian tới, cần được triển
khai đồng bộ trên tất cả các mặt: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; xây dựng
kết cấu hạ tầng; ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ… Theo đó, đòi hỏi
các cấp, các ngành, các địa phương phải tăng cường, củng cố, phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công, nông, trí thức theo
hướng sau:
Một
là, nâng cao nhận thức trong nhân dân về vai trò của khối liên minh công, nông,
trí thức trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào trong sản xuất nông
nghiệp và từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các bộ
phận trong liên minh
Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức và tổ chức
thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển
nông nghiệp hàng hóa lớn có giá trị gia tăng cao, khuyến khích, trợ giúp nông
dân trong tiến trình ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh phải
được tiến hành thường xuyên. Đây vừa là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp CNH,
HĐH, vừa là đòi hỏi của quá trình phân công lao động trong nội bộ nền kinh tế
và hợp tác quốc tế. Nhiệm vụ này đòi hỏi có sự gắn kết của giai cấp công nhân,
đội ngũ trí thức, mà trước hết là trách nhiệm của cấp ủy Đảng và cả hệ thông
chính trị. Đồng thời từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của dân cư nông thôn; tích cực thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh dân chủ ở cơ
sở nhằm tạo sự chuyển biến tư duy của người nông dân để xóa đi tâm lý tiểu
nông, sản xuất thủ công truyền thống của họ; trong phân phối lợi ích bảo đảm
công bằng về tiền lương trong các thành phần kinh tế, tương xứng với sức đóng
góp của các giai tầng vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Đối với giai cấp
công nhân, gắn
đào tạo nghề với việc mở rộng và phát triển các ngành, nghề, lĩnh vực phù hợp với
yêu cầu CNH,HĐH và hội nhập, tăng cường giáo dục văn hóa lao động, kỷ luật lao
động, trách nhiệm nghề nghiệp và tác phong công nghiệp, giải quyết kịp thời, có
hiệu quả các tranh chấp lao động trên cơ sở luật pháp.
Đối
với giai cấp nông dân, hoàn thiện cơ
chế liên kết kinh tế trong việc sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ hàng
nông sản. Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam đồng thời với việc bảo vệ
thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp nông nghiệp. Nhà nước
thống nhất quản lý và điều hành hệ thống dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông dân,
nông thôn thông qua hệ thống liên kết “Bốn nhà”.Có chính sách hợp tác, hỗ trợ
nông dân học nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng
tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang
làm công nghiệp và dịch vụ.
Đối với đội ngũ trí thức, thực
hiện chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ phù hợp, nhất là đội
ngũ nghiên cứu, chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp, hình thành đội ngũ chuyên
gia đáp ứng yêu cầu cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ tư. Tôn trọng và
phát huy tính sáng tạo cuả họ trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Trọng dụng
trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến.
Hai
là, phát huy vai trò và khắc phục những hạn chế của mỗi giai cấp, tầng
lớp trong quá trình ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển sản xuất nông
nghiệp hiện đại.
Phát huy vai trò của giai cấp công nhân về ý
thức chính trị, giác ngộ giai cấp, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần dân tộc và
sự hiểu biết về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, nhất là những vấn đề liên quan đến lao động, việc làm, chính sách xã hội,
những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường, thị trường lao động, quan hệ lao động,
hợp tác và cạnh tranh, hội nhập quốc tế. Từ đó góp phần phát huy vai trò của
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, nhằm khắc phục tính manh mún, nhỏ lẻ
trong tư duy của giai cấp nông dân, thúc đẩy nông dân tiếp cận với cái mới,
khoa học, giúp họ thay đổi theo hướng chuyên nghiệp, văn minh trong sản xuất,
kinh doanh và tổ chức đời sống; tạo môi trường dân chủ cho lao động sáng tạo của
trí thức để đội ngũ này sáng tạo ra tri thức, học thuật mới góp phần đáp ứng
yêu cầu nghiên cứu, khảo nghiệm, thực nghiệm, trao đổi học thuật và tư vấn, phản
biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học yeeucuar cá nhân các
nhà khoa học để tham mưu với Đảng, Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Ba
là, kịp thời giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình liên
kết, chuyển giao và ứng dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp có thể ảnh hưởng tới khối liên minh.
Liên
minh giai cấp công, nông, trí thức chỉ có thể bền vững và phát huy sức mạnh
trong thực tiễn cách mạng khi có sự tôn trọng và đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính
đáng, hợp pháp của chính bản thân các chủ thể tham gia liên minh. Vì vậy, vấn đề
cơ bản và xuyên suốt, vừa là nội dung, vừa là nguyên tắc mang tính quy luật
trong việc xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức trong giai đoạn hiện
nay nói chung và trong sản xuất nông nghiệp nói riêng là các cấp ủy đảng, chính
quyền phải xác định đúng các nhu cầu lợi ích, phát hiện kịp thời các nhu cầu mới
nảy sinh của công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức trong từng thời kỳ cụ thể;
trên cơ sở những tiềm năng và thực trạng kinh tế - xã hội để có giải pháp khả
thi đáp ứng các nhu cầu; xử lý đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh giữa
các giai cấp. Làm tốt điều này, sẽ củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho việc xây
dựng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thành sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế./.
|